Kết quả cụ thể một số mặt hàng chủ yếu như sau:

Gạo: Khối lượng gạo xuất khẩu tháng 4 năm 2018 ước đạt 670 nghìn tấn với giá trị đạt 341 triệu USD, đưa khối lượng xuất khẩu gạo 4 tháng đầu năm 2018 ước đạt 2,16 triệu tấn và 1,1 tỷ USD, tăng 21,7% về khối lượng và tăng 37,7% về giá trị so với cùng kỳ năm 2017. Giá gạo xuất khẩu bình quân 3 tháng đầu năm 2018 đạt 501 USD/tấn, tăng 15% so với cùng kỳ năm 2017. Trung Quốc vẫn tiếp tục đứng vị trí thứ nhất về thị trường nhập khẩu gạo của Việt Nam trong 3 tháng đầu năm 2018 với 29,1% thị phần. Xuất khẩu gạo sang thị trường này trong 3 tháng đầu năm 2018 đạt 411,6 nghìn tấn và 216,6 triệu USD, giảm 21,9% về khối lượng và giảm 11,3% về giá trị so với cùng kỳ năm 2017. Ba tháng đầu năm 2018, các thị trường có giá trị xuất khẩu gạo tăng mạnh là Indonesia (gấp 378 lần), Irắc (gấp 16,7 lần), Malaysia (gấp 3,3 lần), Bờ Biển Ngà (67,1%), Gana (57,4%), Hồng Kông (46,2%) và Singapore (24,6%). Cà phê: Xuất khẩu cà phê tháng 4 năm 2018 ước đạt 162 nghìn tấn với giá trị đạt 307 triệu USD, đưa khối lượng xuất khẩu cà phê 4 tháng đầu năm 2018 ước đạt 691 nghìn tấn và 1,3 tỷ USD, tăng 18,1% về khối lượng và tăng 0,4% về giá trị so với cùng kỳ năm 2017. Giá cà phê xuất khẩu bình quân 3 tháng đầu năm 2018 đạt

Cà phê: Xuất khẩu cà phê tháng 4 năm 2018 ước đạt 162 nghìn tấn với giá trị đạt 307 triệu USD, đưa khối lượng xuất khẩu cà phê 4 tháng đầu năm 2018 ước đạt 691 nghìn tấn và 1,3 tỷ USD, tăng 18,1% về khối lượng và tăng 0,4% về giá trị so với cùng kỳ năm 2017. Giá cà phê xuất khẩu bình quân 3 tháng đầu năm 2018 đạt 1.943 USD/tấn, giảm 14,4% so với cùng kỳ năm 2017. Đức và Hoa Kỳ tiếp tục là hai thị trường tiêu thụ cà phê lớn nhất của Việt Nam trong 3 tháng đầu năm 2018 với thị phần lần lượt là 13,3% và 11,5%. Các thị trường có giá trị xuất khẩu cà phê trong 3 tháng đầu năm 2018 tăng mạnh là: Indonesia (gấp 10,4 lần), Nga (89,7%), Philippin (85,5%), Angieri (18,9%) và Nhật Bản (12%).

Chè: Khối lượng xuất khẩu chè tháng 4 năm 2018 ước đạt 9 nghìn tấn với giá trị đạt 15 triệu USD, đưa khối lượng xuất khẩu chè 4 tháng đầu năm 2018 ước đạt 34 nghìn tấn và 54 triệu USD, giảm 10,2% về khối lượng và giảm 3,6% về giá trị so với cùng kỳ năm 2017. Giá chè xuất khẩu bình quân 3 tháng đầu năm 2018 đạt 1.546 USD/tấn, tăng 7,5% so với cùng kỳ năm 2017. Trong 3 tháng đầu năm 2018, khối lượng chè xuất khẩu sang Pakistan – thị trường lớn nhất của Việt Nam với 21,4% thị phần – giảm 28,6% về khối lượng và giảm 18,9% về giá trị so với cùng kỳ năm 2017. Các thị trường có giá trị xuất khẩu chè trong 3 tháng đầu năm 2018 tăng mạnh là Malaysia (50,1%), Hoa Kỳ (43,5%), Ả rập xêút (35,6%) và Trung Quốc (27,9%).

Hạt điều: Khối lượng hạt điều xuất khẩu tháng 4 năm 2018 ước đạt 29 nghìn tấn với giá trị 282 triệu USD, đưa khối lượng xuất khẩu hạt điều 4 tháng đầu năm 2018 ước đạt 103 nghìn tấn và 1,04 tỷ USD, tăng 23,1% về khối lượng và tăng 31,9% về giá trị so với cùng kỳ năm 2017. Giá hạt điều xuất khẩu bình quân 3 tháng đầu năm 2018 đạt 10.169 USD/tấn, tăng 9,5% so với cùng kỳ năm 2017. Hoa Kỳ, Trung Quốc và Hà Lan vẫn duy trì là 3 thị trường nhập khẩu điều lớn nhất của Việt Nam chiếm thị phần lần lượt là 34,4%, 13,6% và 13,3% tổng giá trị xuất khẩu hạt điều. Ba tháng đầu năm 2018, trừ Úc, tất cả các thị trường xuất khẩu hạt điều chính của Việt Nam đều tăng mạnh.

Tiêu: Khối lượng tiêu xuất khẩu tháng 4 năm 2018 ước đạt 28 nghìn tấn, với giá trị đạt 89 triệu USD, đưa khối lượng xuất khẩu tiêu 4 tháng đầu năm 2018 ước đạt 88 nghìn tấn và 311 triệu USD, tăng 15,5% về khối lượng nhưng giảm 33,2% về giá trị so với cùng kỳ năm 2017. Giá tiêu xuất khẩu bình quân 3 tháng đầu năm 2018 đạt 3.692 USD/tấn, giảm 41,6% so với cùng kỳ năm 2017. Các thị trường xuất khẩu tiêu lớn nhất của Việt Nam trong 3 tháng đầu năm 2018 là Hoa Kỳ, Ấn Độ, Pakistan và Tiểu Vương Quốc Ả Rập Thống Nhất với 41,7% thị phần.

Sắn và các sản phẩm từ sắn: Khối lượng xuất khẩu sắn và các sản phẩm từ sắn trong tháng 4 năm 2018 ước đạt 193 nghìn tấn với giá trị đạt 81 triệu USD, đưa khối lượng xuất khẩu sắn và các sản phẩm từ sắn 4 tháng đầu năm 2018 ước đạt 1,1 triệu tấn và 376 triệu USD, giảm 24,7% về khối lượng nhưng tăng 3,2% về giá trị so với cùng kỳ năm 2017. Trong 3 tháng đầu năm 2018, Trung Quốc là thị trường nhập khẩu chính, chiếm tới 88,2% thị phần, giảm 25,7% về khối lượng và giảm 0,5% về giá trị so với cùng kỳ năm 2017.

Nguồn: Vietnamexport.com