Cập nhật giá tiêu
Giá tiêu trong nước
Theo khảo sát, giá tiêu tại thị trường trong nước tiếp đà đi lên. Sau khi cùng tăng 1.000 đồng/kg, giá thu mua hồ tiêu tại các tỉnh trọng điểm đang dao động từ 73.000 đồng/kg đến 76.000 đồng/kg. Trong đó, mức giá thấp nhất được ghi nhận là 73.000 đồng/kg tại Gia Lai. Nhỉnh hơn một chút là Đồng Nai với mức giá 73.500 đồng/kg.
Hai tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông đang thu mua hồ tiêu với cùng mức giá 74.000 đồng/kg. Tương tự, giá tiêu hôm nay tại Bình Phước và Bà Rịa - Vũng Tàu cũng tăng lên mức 75.500 đồng/kg và 76.000 đồng/kg.
Tỉnh/huyện (khu vực khảo sát)
|
Giá thu mua (Đơn vị: đồng/kg)
|
Thay đổi so với hôm qua (Đơn vị: đồng/kg)
|
Đắk Lắk
|
74.000
|
+1.000
|
Gia Lai
|
73.000
|
+1.000
|
Đắk Nông
|
74.000
|
+1.000
|
Bà Rịa - Vũng Tàu
|
76.000
|
+1.000
|
Bình Phước
|
75.500
|
+1.000
|
Đồng Nai
|
73.500
|
+1.000 |
Giá tiêu thế giới
Theo cập nhật từ Hiệp hội Hồ tiêu Quốc tế (IPC) ngày 10/5 (theo giờ địa phương), giá tiêu thế giới so với ngày 9/5 như sau:
- Tiêu đen Lampung (Indonesia): ở mức 3.566 USD/tấn, tăng 0,06%
- Tiêu đen Brazil ASTA 570: ở mức 2.950 USD/tấn, không đổi
- Tiêu đen Kuching (Malaysia) ASTA: ở mức 4.900 USD/tấn, không đổi
Tên loại
|
Bảng giá tiêu đen thế giới (ĐVT: USD/tấn)
|
Ngày 9/5
|
Ngày 10/5
|
% thay đổi
|
Tiêu đen Lampung (Indonesia)
|
3.564
|
3.566
|
0,06
|
Tiêu đen Brazil ASTA 570
|
2.950
|
2.950
|
0
|
Tiêu đen Kuching (Malaysia) ASTA
|
4.900
|
4.900
|
0
|
- Tiêu trắng Muntok: ở mức 6.046 USD/tấn, tăng 0,08%
- Tiêu trắng Malaysia ASTA: ở mức 7.300 USD/tấn, không đổi
Tên loại
|
Bảng giá tiêu trắng thế giới (ĐVT: USD/tấn)
|
Ngày 9/5
|
Ngày 10/5
|
% thay đổi
|
Tiêu trắng Muntok
|
6.041
|
6.046
|
0,08
|
Tiêu trắng Malaysia ASTA
|
7.300
|
7.300
|
0
|
Hiệp hội Hồ tiêu và cây gia vị Việt Nam (VPSA) cho biết, những tác động của sự suy thoái kinh tế lên nhu cầu của thị trường hồ tiêu chính là yếu tố đáng lo nhất trong thời điểm hiện tại.
Theo đó, tình hình suy thoái kinh tế có thể khiến người tiêu dùng trên thế giới thắt chặt chi tiêu, giảm ăn uống tại các hàng quán từ đó khiến cho lượng tiêu thụ tiêu cũng sẽ giảm theo.
Tuy nhiên, VPSA cho rằng về dài hạn, giá tiêu vẫn có thể tăng. Thông thường, chu kỳ biến động của giá tiêu sẽ mất khoảng 7 - 10 năm. Trong đó, chu kỳ giảm giá của cây tiêu Việt Nam bắt đầu từ năm 2016 đến nay đã là 7 năm và sẽ sớm có sự điều chỉnh lên trở lại.
Song song đó, trong năm nay nhiều diện tích trồng tiêu đã chuyển sang mục đích trồng các cây khác nên tổng diện tích tiêu cũng bị thu hẹp.
Đánh giá về thị trường, các chuyên gia trong ngành tiêu cho rằng nếu thị trường Trung Quốc tiếp tục mua mạnh như quý I vừa qua, khả năng giá tiêu sẽ tăng trở lại trong thời gian tới.
Đặc biệt là khi sản lượng vụ tới có thể giảm do người dân tại một số địa phương chuyển sang trồng chanh dây và sầu riêng cho thu nhập cao hơn.
Cập nhật giá cao su
Tại Sở giao dịch hàng hóa Tokyo (TOCOM), giá cao su kỳ hạn giao tháng 5/2023 đạt mức 201 yen/kg, giảm 0,59% (tương đương 1,2 yen/kg) tại thời điểm khảo sát vào lúc 6h15 (giờ Việt Nam).
Trên Sàn giao dịch hàng hóa tương lai Thượng Hải (SHFE), giá cao su RSS3 giao kỳ hạn tháng 5/2023 được điều chỉnh lên mức 11.980 nhân dân tệ/tấn, giảm 1,01% (tương đương 120 nhân dân tệ) so với giao dịch trước đó.
Theo báo cáo mới nhất của Cục Xuất Nhập khẩu (Bộ Công Thương), trong quý I/2023, cao su của Việt Nam chủ yếu được xuất khẩu sang khu vực châu Á, chiếm tới 90,35% tổng trị giá xuất khẩu cao su của cả nước.
Ghi nhận cho thấy, xuất khẩu cao su sang khu vực châu Á đạt 346,04 nghìn tấn, trị giá 480,04 triệu USD, giảm 2,8% về lượng và giảm 23,5% về trị giá so với cùng kỳ năm 2022.
Trong đó, Trung Quốc vẫn là thị trường lớn nhất tiêu thụ cao su của Việt Nam với 292,61 nghìn tấn, trị giá 397 triệu USD, tăng 4,4% về lượng, nhưng giảm 17,8% về trị giá so với cùng kỳ năm 2022, chiếm 76,64% về lượng và chiếm 74,72% về trị giá trong tổng xuất khẩu cao su của cả nước.
Đứng thứ hai là xuất khẩu tới thị trường Ấn Độ với 17,32 nghìn tấn, trị giá 24,73 triệu USD, giảm 39,8% về lượng và giảm 52,9% về trị giá so với cùng kỳ năm 2022, chiếm 4,54% về lượng và chiếm 4,66% về trị giá trong tổng xuất khẩu cao su của cả nước.