(VINANET) - Gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam đã có mặt trên gần 40 quốc gia trên thế giới. Theo số liệu thống kê của TCHQ, tính từ đầu năm cho đến hết tháng 3/2014, Việt Nam đã xuất khẩu 2,4 tỷ USD mặt hàng gỗ và sản phẩm, trong đó gỗ và sản phẩm gỗ đạt 1,4 tỷ USD, tăng 23,15% và sản phẩm gỗ đạt 974,5 triệu USD, tăng 19%  so với cùng kỳ năm trước.

Tính riêng tháng 3/2014, xuất khẩu gỗ và sản phẩm đạt 519 triệu USD, tăng 36,8% và sản phẩm gỗ đạt 374,1 triệu USD, tăng 69,3% so với tháng 2/2014.

Hoa Kỳ, Trung Quốc, Nhật Bản là ba thị trường chính xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam trong quý I/2014, chiếm 67,5% tổng kim ngạch, trong đó Hoa Kỳ chiếm tỷ trọng lớn nhất, chiếm 33,6% đạt kim ngạch 484,6 triệu USD, tăng 22,8%, đứng thứ hai là Trung Quốc chiếm 18,2%, kim ngạch đạt 262,5 triệu USD, tăng 41,21% và Nhật Bản chiếm 15,6%, đạt 225,1 triệu USD, tăng 28,93% so với quý I/2013.

Trong ba tháng đầu năm nay, kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam sang Mêhicô và Malaixia tuy kim ngạch chỉ đạt 849,9 nghìn USD và 11,7 triệu USD, nhưng lại có tốc độ tăng trưởng mạnh, tăng mạnh nhất là thị trường Mêhicô, tăng 112,55%, kế đến là Malaixia tăng 108,925.

Nhìn chung, hai tháng đầu năm nay, xuất khẩu gỗ và sản phẩm đều tăng trưởng ở hầu khắp các thị trường, số thị trường có tốc độ tăng trưởng dương chiếm 63,1%.

Thống kê sơ bộ của TCHQ về thị trường xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ 3 tháng 2014 – ĐVT: USD

Thị trường
KNXK 3T/2014
KNXK 3T/2013
% so sánh
Tổng KN
1.439.163.976
1.168.647.590
23,15
HoaKỳ
484.618.112
394.374.600
22,88
Trung Quốc
262.522.918
185.914.895
41,21
Nhật Bản
225.157.067
174.630.634
28,93
Hàn Quốc
99.592.819
71.640.178
39,02
Anh
65.475.406
55.924.711
17,08
Đức
31.324.750
33.571.954
-6,69

Canada

29.453.629
26.305.462
11,97
Pháp
27.533.269
28.215.238
-2,42
Oxtrâylia
25.119.118
22.926.081
9,57
hongkong
19.791.341
18.252.099
8,43
Đài Loan
18.584.338
13.189.243
40,91
HàLan
14.918.538
17.627.027
-15,37
Malaixia
11.793.934
5.645.309
108,92
Italia
9.886.015
11.668.043
-15,27
Bỉ
9.515.657
9.422.829
0,99
ẤnĐộ
7.967.675
12.116.315
-34,24
Thuỵ Điển
7.581.901
9.379.454
-19,16
Tây Ban Nha
6.475.411
4.586.581
41,18
Đan Mạch
5.729.797
4.427.612
29,41
A rập Xêut
5.721.769
3.110.788
83,93
Thổ Nhĩ Kỳ
5.718.685
4.327.579
32,15
Ba Lan
4.969.245
3.786.088
31,25
Xingapo
4.198.420
11.031.301
-61,94
Tiểu Vương quốc A rập Thống nhất
3.876.672
3.415.363
13,51
Nga
3.168.306
2.040.332
55,28
TháiLan
2.659.322
2.081.121
27,78

Nam Phi

1.779.194
1.506.596
18,09
Thuỵ Sỹ
1.742.590
1.972.195
-11,64
Áo
1.695.843
1.225.725
38,35
Nauy
1.519.054
2.957.594
-48,64
Hy Lạp
1.419.587
1.358.011
4,53
Séc
1.111.656
1.069.616
3,93
Phần Lan
1.050.924
1.690.538
-37,83
Cămpuchia
883.558
2.265.487
-61,00
Mêhicô
849.923
399.863
112,55
Bồ Đào Nha
775.185
792.352
-2,17
Hungari
383.271
441.015
-13,09
Ucraina
129.963
231.855
-43,95

Phó Chủ tịch – Tổng thư ký Hiệp hội gỗ và lâm sản Việt Nam tại Hội thảo tham vấn quốc gia về Hiệp định VPA/FLEGT do Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn phối hợp với đại diện EU tổ chức cho biết,  sau khi thực hiện Hiệp định VPA/FLEGT (Hiệp định đối tác tự nguyện và tăng cường thực thi luật lâm nghiệp, quản trị rừng, thương mại gỗ), kim ngạch xuất khẩu sản phẩm gỗ Việt Nam sang thị trường Liên minh châu Âu có thể đạt mức trên 1 tỷ USD/năm.

Theo Phó Chủ tịch – Tổng thư ký Hiệp hội gỗ và lâm sản Việt Nam, kim ngạch xuất khẩu sản phẩm gỗ của Việt Nam vào EU hiện vẫn không lớn. Cụ thể, năm 2010 chỉ đạt khoảng 626,8 triệu USD; năm 2011 giảm xuống chỉ còn 594,1%; năm 2012 cũng chỉ đạt khoảng 634,6 triệu USD và chỉ chiếm khoảng 15% so với tổng kim ngạch xuất khẩu gỗ.

Một trong những nguyên nhân khiến xuất khẩu sản phẩm gỗ của Việt Nam sang EU khó đạt mức cao là bởi thị trường này có rất nhiều quy định chặt chẽ về nguồn gốc sản phẩm, cũng như chất lượng. Do đó, để mở rộng đường tiến vào các thị trường lớn như EU, doanh nghiệp phải quan tâm đến nguồn gốc sản phẩm, đáp ứng yêu cầu kỹ thuật đồng thời phải chấp hành tốt các quy định pháp luật và đảm bảo hồ sơ xuất khẩu hợp lệ cũng như đánh giá cấp chứng chỉ hệ thống quản trị như: ISO, SA, CoC… và phù hợp các tiêu chuẩn quốc tế.

Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông Thôn cho biết, mục đích của việc đàm phán Hiệp định VPA là để hai bên đạt được một thỏa thuận hợp tác đảm bảo gỗ và sản phẩm gỗ xuất khẩu từ Việt Nam vào thị trường EU có nguồn gốc hợp pháp thông qua quy trình cấp phép FLEGT của Việt Nam.

Hiệp định VPA cũng sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chế biến gỗ Việt Nam mở rộng xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ vào thị trường EU và tăng khả năng thích ứng với yêu cầu thay đổi của thị trường EU. Thông qua việc đàm phán Hiệp định VPA, Việt Nam đã và đang thể hiện sự cam kết mạnh mẽ của Chính phủ, người dân và các doanh nghiệp chế biến gỗ xuất khẩu Việt Nam trong cuộc chiến chống khai thác và thương mại gỗ bất hợp pháp trên toàn cầu.

Tham dự hội thảo, Đại sứ-Trưởng Phái đoàn EU tại Việt khẳng định EU tin rằng thành công của đàm phán VPA giữa EU và Việt Nam sẽ góp phần tăng cường quá trình cải cách thể chế trong lĩnh vực lâm nghiệp, thực thi pháp luật và nâng cao hình ảnh quốc gia cũng như thương hiệu của ngành công nghiệp gỗ của Việt Nam.

Hiệp định VPA/FLEGT là Hiệp định đối tác song phương mang tính pháp lý giữa EU và quốc gia đối tác xuất khẩu gỗ. Khi tham gia Hiệp định này, các quốc gia đối tác thống nhất chỉ xuất khẩu vào EU gỗ và các sản phẩm gỗ được xác minh hợp pháp.

Việt Nam đã chính thức đàm phán Hiệp định đối tác VPA/FLEGT với EU từ tháng 11/2010. Ba năm qua, hai bên đã nhất trí được nhiều nội dung quan trọng của Hiệp định như: Cấu trúc Hiệp định, khuôn khổ định nghĩa gỗ hợp pháp, hệ thống xác minh và hệ thống cấp phép FLEGT, tổ chức Hiệp định sau khi ký kết.

Ng.Hương

Nguồn: Vinanet/TTXVN

Nguồn: Vinanet