Dưới đây là một số nguyên nhân vì sao hàng TCMN của Việt Nam chưa thành công tại thị trường Nhật Bản:

-Thị trường Nhật Bản luôn chiếm từ 10-29% tổng kim ngạch xuất khẩu TCMN của Việt Nam từ trước tới nay. Những con số để xuất khẩu voà một thị trường lớn hàng TCMN như Nhật Bản, tỷ trọng xuất khẩu của Việt Nam vẫn nằm ở mức khiêm tốn. Việt Nam có sẵn nguồn lao động về TCMN đông đảo trên 10 triệu người, với 2.000 làng nghề và khoảng 1.000 doanh nghiệp tham gia sản xuất xuất khẩu hàng TCMN.

-Khả năng tiếp cận thị trường của các doanh nghiệp Việt Nam còn hạn chế, thiếu thông tin hỗ trợ thị trường, thâm nhập thị trường.

-Nguồn vốn đầu tư không hiệu quả, mẫu mã chậm thay đổi, đại đa số các làng nghề, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh để xuất khẩu có quy mô nhỏ, manh mún, lực lượng lao động chưa được đào tạo bài bản.

-Một số sở thương mại được giao nhiệm vụ này thì quản lý và hoạt động theo kiểu mặt trận, không chuyên sâu.

-Một số văn phòng đại diện về ngành hàng của Việt Nam tại Nhật Bản trong những năm gần đây theo kiểu đầu voi đuôi chuột, hàng hoá và các hoạt động ngoại thương chuyên nghiệp dần mất đi theo thời gian, theo cấp độ đầu tư do không đủ kinh phí hoạt động, do thiếu người có tâm huyết với ngành nghề….

Nhật Bản là một thị trường nhập khẩu hàng TCMN đầy khắt khe, và muốn xuất vào Nhật thì hàng phải có dáng kiểu thiết kế độc đáo, có chất lượng cao, an toàn vệ sinh và môi trường  và phải luôn thay đổi mẫu mã.

Hàng TCMN ở Nhật Bản có một đặc thù riêng cụ thể, chi tiết riêng về văn hoá ,thói quen, nhu cầu, sở thích của người tiêu dùng Nhật, do đó khi xâm nhập vào thị trường này phải biết cách quảng bá thương hiệu, doanh nghiệp của mình. Các mặt hàng thủ công mỹ nghệ nhập khẩu chủ yếu là: đồ gốm sứ các loại như bình, lọ, chén, đĩa…; hàng mây tre đan các loại như: giỏ, sọt, khay, mành trúc, thảm đay, bàn ghế mây song tre… được nhập khẩu phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong dân sinh; phần khác nhằm đáp ứng nh ucầu của các khách sạn, nhà hàng, quán ăn; ngoài ra còn để đáp ứng các dịch vụ du lịch như làm quà tặng, lưu niệm..; đồ mây tre nan (mành trúc, giỏ, sọt, hòm, bàn ghế, thảm cói…), đồ gốm sứ (khay, chén, lọ, bình…), đồ lưu niệm (các loại ví và túi xách, vali, ô dù, mũ), các sản phẩm gỗ….

Phải nghiên cứu thật cụ thể: sản phẩm được làm bằng nguyên liệu gì? Sử dụng phương pháp gì để tạo ra sản phẩm? Sản phẩm thể hiện tính truyền thống ra sao? Thiết kế phải chuyên nghiệp hơn, phải sử dụng các loại nguyên liệu thích hợp, hướng dẫn bán hàng phải ghi rõ chức năng, mục đích sử dụng của sản phẩm. Và điều cần thiết các doanh nghiệp phải biết xây dựng thương hiệu cho doanh nghiệp của chính mình cho nhóm mặt hàng TCMN của Việt Nam để chuyển hoá cách thức tiếp cận thị trường mục tiêu cho những biện pháp để nâng cao năng lực cạnh tranh tại thị trường đầy tiềm năng nhưng khó tính này.

Nguồn: Vinanet