Kết thúc phiên giao dịch, giá dầu thô ngọt nhẹ (WTI) kỳ hạn giao tháng 11/2016 trên sàn New York tăng 26 cent, tương ứng 0,52%, lên 50,44 USD/thùng. Giá dầu Brent giao cùng kỳ hạn giá tăng 22 cent, tương đương 0,42%, lên 52,03 USD/thùng.
Theo số liệu của Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA), lượng dầu lưu kho của Mỹ trong tuần kết thúc vào 7/10 tăng 4,9 triệu thùng, ghi nhận tuần tăng đầu tiên trong 6 tuần qua và cao hơn nhiều so với dự đoán tăng 900.000 thùng của các nhà phân tích trong khảo sát của Wall Street Journal.
Tuy nhiên, tổng nguồn cung dầu thô và sản phẩm lọc dầu của Mỹ tuần qua lại giảm 5,1 triệu thùng.
Số liệu của EIA cũng cho thấy, các nhà máy lọc dầu của Mỹ giảm công suất chế biến trong tuần qua - thường xảy ra vào thời điểm này của năm khi các nhà máy tiến hành bảo dưỡng định kỳ. Công suất của các nhà máy lọc dầu tuần qua giảm xuống 85,5% từ 88,3% tuần trước đó, khiến lượng dầu lưu kho tăng lên. Nhưng nguồn cung xăng lại giảm 1,9 triệu thùng và dự trữ sản phẩm chưng cất giảm 3,7 triệu thùng.
Giá dầu duy trì đà tăng kể từ khi OPEC hồi cuối tháng 9 nhất trí cắt giảm sản lượng. Nhưng thị trường vẫn hoài nghi liệu khối này có thực sự thực hiện kế hoạch này hay không.
Số liệu mới nhất của OPEC cho thấy, sản lượng dầu thô của khối trong tháng 9 tăng 220.000 thùng/ngày, cao nhất kể từ năm 2008, càng khiến thị trường hoài nghi về tính khả thi của thỏa thuận cắt giảm sản lượng. Hơn nữa, báo cáo của OPEC cũng cho thấy sự chênh lệch giữa số liệu của khối và thông tin do từng nước thành viên cung cấp.
Việc thiếu cam kết mạnh mẽ và rõ ràng của Nga về việc cắt giảm sản lượng cũng làm tăng hoài nghi về tính khả thi của thỏa thuận cắt giảm sản lượng.
Giá dầu phiên 13/10 cũng được hỗ trợ sau khi số liệu của Hải quan Trung Quốc cho thấy, nhập khẩu dầu thô của nước này trong tháng 9 đạt 8,04 triệu thùng/ngày, tăng 18% so với cùng kỳ năm 2015.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng cũng tăng khi USD suy yếu và chứng khoán toàn cầu giảm điểm do lo ngại về sức khỏe kinh tế Trung Quốc.
Giá vàng giao ngay tăng 0,3% lên 1.258,55 USD/ounce, vàng giao tháng 12/2016 tăng 0,3% lên 1.257,6 USD/ounce.
Chỉ số đôla giảm 0,3%, giúp giá vàng trở nên hợp lý hơn đối với người mua sử dụng ngoại tệ.
Giới đầu tư đổ tiền vào vàng khi chứng khoán toàn cầu giảm xuống mức thấp nhất 3 tuần qua sau khi số liệu thương mại tháng 9 của Trung Quốc được công bố, dấy lên lo ngại về sức khỏe của nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới. Theo báo cáo, xuất khẩu của Trung Quốc trong tháng 9 giảm 5,6% tính theo nhân dân tệ và giảm 10% tính theo USD so với cùng kỳ năm ngoái.
Chủ tịch Fed Phladelphia Patrick Harker - người chưa có quyền biểu quyết về chính sách tiền tệ trong năm nay nhưng sẽ có quyền này vào năm 2017 - cho biết, Fed nên nâng lãi suất một lần vào cuối năm nay và ít nhất 2 lần trong năm 2017 trong bối cảnh kinh tế Mỹ tiếp tục được cải thiện.
Trong số các kim loại quý khác, giá bạc giao ngay tăng 0,4% lên 17,52 USD/ounce; trong khi đó, giá bạch kim giảm 0,7% xuống 935,45 USD/ounce và giá palladium giảm 1,5% xuống 639,3 USD/ounce.
Trên thị trường nông sản, giá cà phê biến động trái chiều. Tại London, robusta giảm 1-6 USD/tấn, trong khi đó tại New York, arabica tăng 0,6-0,65 cent/lb.
Giá cà phê robusta sàn London phiên 13/10 dù giảm nhẹ nhưng vẫn ở mức cao nhất gần 2 năm do nguồn cung thắt chặt. Giới thương nhân dự đoán sản lượng cà phê Việt Nam niên vụ 2016-2017 giảm 15% do thời tiết khô hạn.
Mức trừ cà phê Việt Nam nới rộng khi giá nội địa hôm 13/10 lên cao nhất kể từ tháng 5/2013, trong khi mức trừ lùi tại Indonesia hầu như không thay đổi.
Vụ thu hoạch cà phê tại Việt Nam sẽ lên cao điểm sau khoảng một tháng nữa.
Giá hàng hóa thế giới
Hàng hóa
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
50,44
|
+0,26
|
+0,52%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
52,03
|
+0,22
|
+0,42%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
32.850,00
|
+410,00
|
+1,26%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
3,35
|
+0,01
|
+0,30%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
148,05
|
-0,13
|
-0,09%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
158,23
|
+0,27
|
+0,17%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
468,25
|
+2,50
|
+0,54%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
43.060,00
|
+250,00
|
+0,58%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.258,80
|
+1,20
|
+0,10%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
4.184,00
|
-5,00
|
-0,12%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
17,49
|
+0,03
|
+0,18%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
58,10
|
-0,30
|
-0,51%
|
Bạch kim giao ngay
|
USD/t oz.
|
937,85
|
+0,56
|
+0,06%
|
Palladium giao ngay
|
USD/t oz.
|
639,38
|
-0,29
|
-0,05%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
213,00
|
+0,80
|
+0,38%
|
Đồng LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
4.712,00
|
-102,00
|
-2,12%
|
Nhôm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
1.692,00
|
+7,00
|
+0,42%
|
Kẽm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
2.240,00
|
-24,00
|
-1,06%
|
Thiếc LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
19.485,00
|
-340,00
|
-1,72%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
351,25
|
+1,75
|
+0,50%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
418,25
|
+2,25
|
+0,54%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
195,75
|
-2,25
|
-1,14%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
10,21
|
-0,02
|
-0,20%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
955,25
|
-1,00
|
-0,10%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
301,20
|
-1,10
|
-0,36%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
33,46
|
+0,08
|
+0,24%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
480,00
|
-0,10
|
-0,02%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.696,00
|
+53,00
|
+2,01%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
152,70
|
+0,60
|
+0,39%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
22,92
|
-0,23
|
-0,99%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
191,45
|
-7,30
|
-3,67%
|
Bông
|
US cent/lb
|
69,60
|
+0,29
|
+0,42%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
328,00
|
-6,60
|
-1,97%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
181,50
|
+3,70
|
+2,08%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,56
|
+0,03
|
+1,76%
|
Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg