Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm hơn 2% xuống mức thấp nhất kể từ sau vụ tấn công nhằm vào hai cơ sở lọc dầu chủ chốt của Saudi Arabia. Nguyên nhân giá tăng là do gia tăng quan ngại về xung đột thương mại Mỹ-Trung.
Kết thúc phiên giao dịch, dầu Brent Biển Bắc giảm 1,67 USD (2,6%) xuống 63,10 USD/thùng, trong khi dầu thô ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giảm 1,35 USD (2,3%) xuống 57,29 USD/thùng.
Phát biểu tại cuộc họp của Đại hội đồng Liên hợp quốc, Tổng thống Mỹ Donald Trump cáo buộc Trung Quốc thực hiện các biện pháp thương mại không công bằng, bao gồm các rào cản thị trường, thao túng tiền tệ và đánh cắp sở hữu trí tuệ. Phát biểu của ông Trump được đưa ra chỉ vài ngày sau khi các quan chức thương mại của Mỹ và Trung Quốc kết thúc cuộc đàm phán thương mại cấp thứ trưởng tại New York mà không có kết quả.
Chuyên gia John Kilduff thuộc Again Capital LLC ở New YoK (Mỹ) cho rằng ông Trump đã "đổ thêm dầu vào lửa" giữa lúc căng thẳng thương mại Mỹ-Trung chưa có dấu hiệu hạ nhiệt. Điều này cho thấy nỗ lực giải quyết tranh chấp thương mại giữa hai nền kinh tế lớn nhất thế giới và tiêu thụ nhiên liệu nhiều nhất thế giới vẫn chưa đạt được tiến triển đáng kể nào.
Về thông tin liên quan, Viện Dầu khí Mỹ thông báo dự trữ dầu thô của nước này đã tăng 1,4 triệu thùng trong tuần trước, so với mức dự báo giảm 200.000 thùng của giới phân tích.
Niềm tin tiêu dùng ở Mỹ trong tháng 9/2019 đã giảm mạnh nhất trong 9 tháng qua. Bên cạnh đó, các chuyên gia cho rằng dữ liệu kinh tế ảm đạm của các nền kinh tế hàng đầu Cchâu Âu và Nhật Bản cũng tác động bất lợi đến giá dầu. Thị trường cũng lo ngại về những rủi ro địa chính trị tại Trung Đông sau khi xảy ra các vụ tấn công nhằm vào hai cơ sở dầu mỏ của Saudi Arabia hồi giữa tháng này.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng đã tăng lên mức cao nhất trong gần 3 tuần qua, giữa lúc những diễn biến chính trị mới nhất tại Mỹ đã đẩy thị trường chứng khoán vào vùng đỏ.
Chỉ số đáng thất vọng về lòng tin tiêu dùng của nền kinh tế lớn nhất thế giới cũng góp phần hỗ trợ đà đi lên của giá vàng. 
Cuối phiên giao dịch, giá vàng giao ngay tăng lên 1.527,40 USD/ounce, sau khi có lúc vọt lên mức cao nhất kể từ ngày 5/9 là 1.535,60 USD/ounce lúc đầu phiên. Trong khi đó, giá vàng giao sau tăng 0,6%, khép phiên ở mức 1.540,20 USD/ounce.
Chuyên gia phân tích kim loại quý Suki Cooper thuộc Standard Chartered Bank cho rằng, những quan ngại về việc đảng Dân chủ của Mỹ quyết định tiến hành điều tra luận tội Tổng thống Donald Trump đã tác động xấu đến các thị trường chứng khoán.
Trong khi chỉ số niềm tin tiêu dùng Mỹ giảm mạnh trong tháng Chín cùng với những lo ngại về căng thẳng thương mại Mỹ-Trung gây áp lực giảm giá dầu thì trái lại, những yếu tố này lại thúc đẩy nhu cầu đối với các tài sản an toàn như vàng.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giảm 0,8% xuống 18,49 USD/ounce, giá bạch kim mất 0,4% xuống 952,91 USD/ounce, trong khi đó giá palađi tăng 1,2% lên 1.65,50 USD/ounce.
Trên thị trường nông sản, giá đường thô đã tăng lên mức cao chưa từng có trong vòng gần một tháng qua do dự báo thiếu cung trong vụ 2019/20 và các quỹ tăng cường mua vào. Tuy nhiên, các thương gia cho biết có sự chênh lệch lớn về giá giữa hợp đồng sắp hết hạn với hợp đồng kỳ hạn tháng 10 tới, cho thấy nguồn cung hiện tại đang dồi dào.
Đường thô kỳ hạn tháng 10/2019 kết thúc phiên tăng 0,28 US cent, tương đương 2,3%, lên 11,50 US cent/lb; trong phiên có lúc đạt 11,57 US cent. Đường trắng kỳ hạn tháng 12/2019 cũng tăng 1,6 USD, tương đương 0,49%,lên 330,9 USD/tấn.
Cà phê arabica kỳ hạn tháng 12/2019 tăng 0,15 US cent, tương đương 0,15% lên 0,9915 USD/lb, trong khi robusta kỳ hạn tháng 11/2019 tăng 1 USD, tương đương 0,08%, lên 1.317 USD/tấn.
Fitch dự báo "Đồng real Brazil sẽ tiếp tục yếu, nguồn cung của Brazil bị gián đoạn chỉ trong thời gian ngắn và các chỉ số kỹ thuật cho thấy giá có thể giảm trở lại…Thị trường cà phê sẽ tiếp tục dao động nhẹ trong bối cảnh xu hướng mua đầu cơ diễn ra không mạnh, nhưng cũng không quá cực đoan.
Cacao trên sàn New York cũng tăng giá trong phiên vừa qua, theo đó hợp đồng kỳ hạn tháng 12/2019 tăng 15 USD, tương đương 0,6%, lên 2.439 USD/tấn. Phiên 20/9/2019, hợp đồng này đã chạm mức cao nhất kể từ 26/7/2019 là 2.484 USD/tấn. Trên sàn London, hợp đồng kỳ hạn tháng 12/2019 giảm 15 GBP, tương đương 0,8%, xuống 1.837 GBP/tấn; phiên trước đó có lúc đạt mức cao nhất kể từ đầu tháng 8/2019 là 1.858 GBP.
Bờ Biển Ngà đang vào lúc thu hoạch cao điểm. Lượng cacao đến các cảng chính ở nước này kể từ 1/10/2018 đến 22/9/2019 đạt 2.164 tấn, tăng khoảng 10,7% so với cùng kỳ năm trước.
Giá dầu cọ kỳ hạn trên thị trường Malaysia vừa giảm xuống mức thấp nhất hơn 6 tuần và là phiên giảm thứ 5 liên tiếp do triển vọng sản lượng tăng trong khi nhu cầu mua chậm hơn so với các loại dầu khác.
Trên sàn Bursa (Malaysia), hợp đồng kỳ hạn tháng 12/2019 giảm 2,3% xuống 2.141 ringgit (512,2 USD)/tấn, mức giảm nhiều nhất trong vòng 3 tuần. Đầu phiên có lúc giá giảm 2,5% xuống 2.134 ringgit, thấp chưa từng có kể từ 8/8/2019.
Malaysia đang được mùa dầu cọ, và tình hình ở Indonesia cũng tương tự. Sản lượng tại Malaysia trong tháng 8/2019 tăng 4,6% so với tháng trước đó, đạt 1,82 triệu tấn và là mức cao nhất kể từ tháng 11/2018.
Giá cao su kỳ hạn trên sàn Tokyo tăng trong phiên vừa qua do giá tại các nước cung cấp tăng vì nguồn cung khan hiếm, mặc dù giá ở Thượng Hải giảm. Cuối phiên, cao su kỳ hạn tháng 2/2020 tăng 1,5 JPY (0,0139 USD) lên 168,1 JPY/kg. Cao su TSR20 kỳ hạn tháng 3/2020 trên sàn TOCOM kết thúc phiên ở mức giá 153,9 JPY/kg.
Tuy nhiên tại Trung Quốc giá giảm. Hợp đồng kỳ hạn tháng 1/2019 trên sàn Thượng Hải giảm 135 CNY (18,99 USD) xuống 11.835 CNY/tấn; cao su TRS20 cũng giảm 85 CNY xuống 10.100 CNY/tấn.
Giá hàng hóa thế giới

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

57,29

-1,35

-2,3%

Dầu Brent

USD/thùng

63,10

-1,67

-2,58%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

37.780,00

-1.080,00

-2,78%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,50

0,00

-0,04%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

163,83

-1,60

-0,97%

Dầu đốt

US cent/gallon

195,72

-1,04

-0,53%

Dầu khí

USD/tấn

606,00

-6,00

-0,98%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

56.500,00

-1.100,00

-1,91%

Vàng New York

USD/ounce

1.538,80

-1,40

-0,09%

Vàng TOCOM

JPY/g

5.259,00

+13,00

+0,25%

Bạc New York

USD/ounce

18,68

+0,05

+0,25%

Bạc TOCOM

JPY/g

64,50

+0,50

+0,78%

Bạch kim

USD/ounce

955,98

+1,58

+0,17%

Palađi

USD/ounce

1.676,30

+2,16

+0,13%

Đồng New York

US cent/lb

260,45

-0,20

-0,08%

Đồng LME

USD/tấn

5.780,00

+2,00

+0,03%

Nhôm LME

USD/tấn

1.762,50

-22,50

-1,26%

Kẽm LME

USD/tấn

2.282,00

-49,50

-2,12%

Thiếc LME

USD/tấn

16.500,00

-30,00

-0,18%

Ngô

US cent/bushel

376,75

+2,00

+0,53%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

481,75

0,00

0,00%

Lúa mạch

US cent/bushel

274,75

+1,25

+0,46%

Gạo thô

USD/cwt

11,97

-0,04

-0,29%

Đậu tương

US cent/bushel

896,50

+2,25

+0,25%

Khô đậu tương

USD/tấn

300,60

+1,10

+0,37%

Dầu đậu tương

US cent/lb

29,28

-0,05

-0,17%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

449,30

0,00

0,00%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.439,00

-15,00

-0,61%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

99,15

+0,15

+0,15%

Đường thô

US cent/lb

12,41

+0,20

+1,64%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

98,25

-1,85

-1,85%

Bông

US cent/lb

60,40

-0,51

-0,84%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

373,00

-14,20

-3,67%

Cao su TOCOM

JPY/kg

167,40

-0,70

-0,42%

Ethanol CME

USD/gallon

1,37

0,00

-0,22%

Nguồn: VITIC/ Reuters, Bloomberg