Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm gần 2% giữa bối cảnh giới đầu tư tập trung vào sự gia tăng nguồn cung dầu toàn cầu, hiện đang tăng vượt dự kiến.
Cuối phiên này, tại thị trường New York, giá dầu ngọt nhẹ giao kỳ hạn giảm 1 USD (1,6%), xuống 60,67 USD/thùng, thấp nhất kể từ ngày 14/3. Trong khi đó, tại thị trường London, giá dầu Brent Biển Bắc giao kỳ hạn cũng mất 1,42 USD (1,97%), xuống 70,65 USD/thùng, mức "đáy" kể từ giữa tháng 8/2018.
Mối lo ngại về tình trạng dôi dư nguồn cung dầu bắt đầu trở lại trên thị trường khi các nhà đầu tư đang hướng sự chú ý vào sản lượng dầu cao kỷ lục của Mỹ và một số dấu hiệu cho thấy sản lượng dầu thô tại Iraq, Abu Dhabi và Indonesia sẽ tăng nhanh hơn dự kiến trong năm 2019.
Điều này khiến “vàng đen” để tuột mất đà tăng ở đầu phiên, khi xuất hiện báo cáo mới nhất cho thấy nhập khẩu dầu mỏ của Trung Quốc đạt mức cao kỷ lục trong tháng 10/2018 là 9,61 triệu thùng/ngày, tăng 32% so với cùng kỳ năm 2017. Nhờ việc Mỹ “nới lỏng” lệnh trừng phạt Iran, Trung Quốc cùng sáu quốc gia khác vẫn tiếp tục được nhập khẩu dầu mỏ từ quốc gia Hồi giáo này.
Trong khi đó, sản lượng dầu của Mỹ đã leo lên mức cao kỷ lục mới vào tuần trước, đạt 11,6 triệu thùng/ngày. Hiện Mỹ đã vượt Nga để trở thành nhà sản xuất dầu lớn nhất thế giới. Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ thậm chí đã dự báo sản lượng dầu của nước này sẽ chạm ngưỡng 12 triệu thùng/ngày vào giữa năm 2019, nhờ lượng dầu đá phiến “khủng”.
Ngay cả khi Washington áp dụng lệnh trừng phát đối với lĩnh vực dầu mỏ của Iran, giới đầu tư vẫn tin rằng nguồn cung vẫn đủ đáp ứng nhu cầu dầu mỏ trong thời gian tới, qua đó có thế đẩy giá dầu đi xuống.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng cũng giảm xuống mức thấp nhất một tuần do đồng USD mạnh lên, sau khi Fed giữ nguyên lãi suất và được cho là vẫn trên lộ trình tiếp tục tăng lãi suất.
Giá vàng giao ngay giảm 0,2% xuống còn 1.223,11 USD/ounce, sau khi có thời điểm chạm mức thấp nhất kể từ ngày 1/11 là 1.219,59 USD/ounce; giá vàng giao tháng 12 giảm 3,6 USD, hay 0,29% và khép phiên ở mức 1.225,10 USD/ounce.
Trong thông báo chính sách mới nhất, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) cho biết thị trường lao động đang tiếp tục mạnh lên và hoạt động kinh tế đang gia tăng mạnh mẽ, từ đó ngân hàng trung ương Mỹ quyết định giữ nguyên lãi suất và không có dấu hiệu gì cho thấy sẽ thay đổi lộ trình nâng lãi suất.
Đồng USD tiếp tục đà phục hồi sau khi các thị trường “nhẹ nhõm” sau kết quả bầu cử giữa nhiệm kỳ ở Mỹ và giới đầu tư hướng sự chú ý đến Fed. Giá vàng đã giảm hơn 10% so với mức đỉnh ghi nhận hồi tháng Tư do giới đầu tư “ưu ái” đồng USD hơn khi cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung nổ ra trong bối cảnh Mỹ nâng lãi suất.
Vàng đang trên đà ghi nhận phiên thứ năm giảm giá liên tiếp, khi giới đầu tư lại có hứng thú với những loại tài sản có độ rủi ro cao hơn như chứng khoán.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giảm 1,1% xuống còn 14,40 USD/ounce, trong khi giá bạch kim để mất 1,2% và được giao dịch ở mức 862 USD/ounce.
mỏ chủ chốt, trong đó có Nga, sẽ tiến hành các biện pháp thắt chặt nguồn cung thông qua việc từng bước cắt giảm sản lượng.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá lithium, thành phần chính của pin di động, đang giảm mạnh. Giá giao ngay lithium tại Trung Quốc đã rớt thảm hại từ đầu năm tới nay do nguồn cung quá lớn, phần lớn từ các mỏ đá cứng mới xuất hiện tại Australia.
Giá giao ngay lithium carbonate đã giảm từ mức trung bình 26,18 USD/kg trong tháng 12/2017 xuống còn 11,23 USD/kg vào tháng 10, theo Fastmarkets MB.
Trung Quốc là trung tâm của thị trường lithium do đã tích cực phát triển cả thị trường xe điện và năng lực sản xuất pin. Đây cũng là nơi mà các yếu tố cung và cầu ngắn hạn có tác động rất lớn tới giá lithium. Không chỉ sản xuất nội địa nước muối lithium đang hoạt động mạnh mà quốc gia này còn là điểm đến của quặng vận chuyển trực tiếp đến từ các nhà sản xuất mới của Australia như Galaxy Resource GXY.AX, AJura Mining AJura và Pilbara Minerals PLS.AX.
Trên thị trường nông sản, nông dân Tây Nguyên đã bán cà phê với giá 37.000 đồng (1,59 USD)/kg, tăng so với mức 36.300 đồng một tuần trước đó, các thương nhân cho biết.
Mức chênh lệch giá chào bán cà phê đen 5% vỡ loại 2 của Việt Nam so với giá cà phê London là 90- 100 USD/ tấn đối với hợp đồng tháng 1/2019, tăng so với mức chênh lệch 50- 90 USD vào tuần trước.
Tại Indonesia, giá cà phê hạt robusta của Lampung được giao dịch với mức chênh lệch 30 USD đối với hợp đồng tháng 1/2019 trong tuần này, so với mức chênh lệch 20- 30 USD vào tuần trước, một nhà xuất khẩu tại Bandar Lampung cho biết.
Sản lượng cà phê từ vụ thu hoạch 2018-19 của Việt Nam, bắt đầu từ tháng trước, có thể không cao như dự báo trước đây do điều kiện thời tiết không thuận lợi, các thương nhân cho biết.
Các thương nhân dự báo sản lượng sẽ đạt khoảng 27 triệu bao 60 kg trong niên vụ bắt đầu từ 1/10, giảm so với dự kiến trước đó là 30 triệu bao.Sản lượng giảm là do mùa mưa kết thúc sớm hơn trong năm nay. Bình thường mưa tiếp tục kéo dài cho tới tháng 9 và 10, nhưng năm nay không như vậy, kiến hạt cà phê nhỏ hơn.
Nông dân ở Tây Nguyên cho biết vụ thu hoạch đã bắt đầu ở đây và vụ thu hoạch chưa đạt điểm đỉnh vào đầu tháng tới.
Giá hàng hóa thế giới 

 

Mặt hàng

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

60,67

-1,00

-1,6%

Dầu Brent

USD/thùng

70,65

-1,42

-1,97%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

49.310,00

-500,00

-1,00%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

3,56

+0,01

+0,40%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

164,41

-0,02

-0,01%

Dầu đốt

US cent/gallon

217,12

+0,29

+0,13%

Dầu khí

USD/tấn

663,25

-6,50

-0,97%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

65.500,00

-640,00

-0,97%

Vàng New York

USD/ounce

1.220,10

-5,00

-0,41%

Vàng TOCOM

JPY/g

4.444,00

-12,00

-0,27%

Bạc New York

USD/ounce

14,36

-0,07

-0,47%

Bạc TOCOM

JPY/g

52,70

-0,30

-0,57%

Bạch kim

USD/ounce

858,03

-6,14

-0,71%

Palađi

USD/ounce

1.124,29

-3,18

-0,28%

Đồng New York

US cent/lb

272,05

-1,55

-0,57%

Đồng LME

USD/tấn

6.155,00

+2,00

+0,03%

Nhôm LME

USD/tấn

1.990,00

+5,00

+0,25%

Kẽm LME

USD/tấn

2.522,50

+67,50

+2,75%

Thiếc LME

USD/tấn

19.325,00

+275,00

+1,44%

Ngô

US cent/bushel

373,00

-0,50

-0,13%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

507,50

-0,25

-0,05%

Lúa mạch

US cent/bushel

287,00

+0,25

+0,09%

Gạo thô

USD/cwt

10,63

0,00

-0,05%

Đậu tương

US cent/bushel

876,75

-2,25

-0,26%

Khô đậu tương

USD/tấn

306,50

+0,40

+0,13%

Dầu đậu tương

US cent/lb

27,92

-0,10

-0,36%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

480,70

-1,10

-0,23%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.292,00

-107,00

-4,46%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

116,65

+1,05

+0,91%

Đường thô

US cent/lb

12,84

-0,17

-1,31%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

136,55

-0,85

-0,62%

Bông

US cent/lb

79,15

+0,14

+0,18%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

349,50

+8,70

+2,55%

Cao su TOCOM

JPY/kg

161,00

+1,60

+1,00%

Ethanol CME

USD/gallon

1,27

-0,01

-0,55%

Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg