Giá than nhiệt lượng CV 6.000 của Nam Phi đã vượt 96 USD/tấn, được hỗ trợ lượng tồn kho thấp tại Cảng Nam Phi Ricchards Bay (RBCT).
Tồn kho tại cảng RBCT đã giảm xuống còn 3,39 triệu tấn (-0,20 triệu tấn so với tuần trước). Trong tháng 7, xuất khẩu qua RBCT dự kiến đạt 3,7 triệu tấn (-0,59 triệu tấn hoặc -14% so với tháng 6 năm 2025), do việc bảo trì từ ngày 15 đến 26 tháng 7.
Tại Trung Quốc, giá than giao ngay 5.500 NAR tại cảng Tần Hoàng Đảo tăng nhẹ lên trên 86 USD/tấn do nhu cầu tiêu thụ tăng và lượng hàng tồn kho tại cảng giảm. Hơn nữa, tăng trưởng sản lượng than tại các mỏ lộ thiên ở các khu vực như Sơn Tây, Nội Mông và Thiểm Tây đã chậm lại do điều kiện thời tiết không thuận lợi, trong khi nhu cầu từ các công ty phát điện tăng cao do nhiệt độ cao và mức tiêu thụ điện cao hơn.
Lượng than tồn kho tại 9 cảng lớn nhất giảm xuống còn 27,37 triệu tấn (-0,23 triệu tấn so với tuần trước), trong khi lượng than tồn kho tại 6 nhà máy nhiệt điện ven biển lớn nhất đạt tổng cộng 14,27 triệu tấn (-0,06 triệu tấn).
Giá than Indonesia 5.900 GAR giảm xuống còn 71 USD/tấn, trong khi giá than 4.200 GAR tăng trên 40 USD/tấn.
Than Úc nhiệt lượng CV cao 6.000 tiếp tục giao dịch dưới 110 USD/tấn, trong khi giá than 5.500 tăng nhẹ trên 65 USD/tấn.
Chỉ số than luyện kim HCC của Úc đã giảm xuống dưới 178 USD/tấn, sau khi tăng mạnh một tuần trước đó, do nguồn cung từ trong nước tăng mạnh.
 

Nguồn: thecoalhub.com