Năng lượng: Giá dầu giảm 10% trong tuần giảm thứ 2 liên tiếp
Phiên cuối tuần qua (18/11), giá dầu giảm khoảng 2% và là tuần giảm thứ 2 liên tiếp do lo ngại về nhu cầu yếu tại Trung Quốc và lãi suất của Mỹ tiếp tục tăng.
Kết thúc phiên này, giá dầu thô Brent giảm 2,16 USD hay 2,4% xuống 87,62 USD/thùng, trong phiên có lúc giá chạm mức thấp nhất kể từ ngày 28/9 tại 85,80 USD/thùng; dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giảm 1,56 USD hay 1,9% xuống 80,08 USD/thùng. Cả hai lại dầu có tuần giảm giá thứ hai liên tiếp, với dầu Brent giảm khoảng 9% và dầu WTI giảm 10%.
Dầu thô đã lên mức cao kỷ lục hồi đầu năm nay khi xung đột Nga – Ukraine làm gia tăng những lo ngại về nguồn cung. Những lo ngại này đang giảm dần. Theo số liệu của Refinitiv Eikon, hợp đồng WTI giao ngay đang giao dịch ở mức thấp hơn so với hợp đồng giao tháng thứ 2 - lần đầu tiên kể từ năm 2021. Tình trạng này cũng có lợi cho những người muốn tăng dự trữ, đặc biệt khi dự trữ vẫn ở mức thấp. Dầu Brent vẫn theo cấu trúc ngược lại, mặc dù mức cộng của dầu Brent kỳ hạn gần với giao sau 6 tháng đã giảm xuống 3 USD, thấp nhất kể từ tháng 4.
Khi lệnh cấm của Liên minh Châu Âu với dầu thô từ Nga có hiệu lực vào ngày 5/12, khả thăng có thêm nhiều thùng dầu từ Nga gây áp lực cho thị trường dầu giao ngay cũng ảnh hưởng tới giá kỳ hạn.
Về thị trường Trung Quốc, nguồn tin cho biết nước này đang tìm cách giảm tốc độ nhập khẩu dầu thô từ một số nguồn, trong bối cảnh số ca nhiễm COVID-19 gia tăng và dự đoán Cục Dự trữ Liên bang Mỹ vẫn tiếp tục tăng mạnh lãi suất.
John Kilduff, đối tác của Again Capital LLC ở New York, cho biết: “Tình hình ở Trung Quốc với COVID tiếp tục ám ảnh thị trường này. "Thị trường đã rất lạc quan khi Trung Quốc thông báo cố gắng mở cửa trở lại, nhưng sau đó thực tế hoàn toàn ngược lại”.
Khi lệnh cấm của Liên minh châu Âu đối với dầu thô của Nga có hiệu lực vào ngày 5 tháng 12, triển vọng có thêm nguồn cung dầu từ Nga gây áp lực lên thị trường dầu thô giao ngay cũng ảnh hưởng đến giá giao sau.
Những lo ngại về suy thoái đã gia tăng trong tuần qua ngay cả khi Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) và các đồng minh của tổ chức này, được gọi là OPEC +, thắt chặt nguồn cung.
Naeem Aslam của Avatrade cho biết: “Về phía cầu, có những lo ngại về sự suy giảm kinh tế. "Con đường của ít kháng cự nhất dường như lệch về phía dưới."
Fed dự kiến sẽ tăng lãi suất thêm 50 điểm cơ bản (bps) nhỏ hơn tại cuộc họp chính sách ngày 13-14 / 12 sau bốn lần tăng liên tiếp lên 75 bps, một cuộc thăm dò của Reuters cho thấy.
OPEC +, đã bắt đầu đợt cắt giảm nguồn cung mới vào tháng 11, tổ chức một cuộc họp chính sách vào ngày 4 tháng 12.
Kim loại quý: Giá vàng giảm 0,9% trong tuần qua
Giá vàng giảm trong phiên cuối tuần sau những dấu hiệu từ các quan chức của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ cho thấy lãi suất sẽ tăng tiếp khi ngân hàng trung ương này tìm cách giảm lạm phát.
Kết thúc phiên này, giá vàng giao ngay giảm 0,7% xuống 1.748,84 USD/ounce, tính chung cả tuần giảm 1,3%, giảm mạnh nhất kể từ giữa tháng 10. Trong khi đó, giá vàng kỳ hạn tháng 12 giảm 0,5% xuống 1.754,4 USD/ounce.
Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Boston, Susan Collins, cho biết ngân hàng trung ương Mỹ sẽ tăng thêm lãi suất để giảm lạm phát, rằng vẫn có khả năng tăng 75 điểm cơ bản.
Trong khi vàng đã giảm 15% kể từ mức đỉnh hồi tháng 3 sau khi Fed bắt đầu thắt chặt chính sách tiền tệ, giá đã tăng khoảng 7% kể từ đầu tháng 11 do các thị trường bắt đầu định giá tốc độ tăng lãi suất chậm lại.
Thị trường hiện nay dự đoán 87% khả năng tăng lãi suất 50 điểm cơ bản tại cuộc họp của Fed trong tháng 12.
Fawad Razaqzada, nhà phân tích thị trường thuộc City Index, cho biết: “Vàng đã có thể giữ giá tương đối tốt cho đến nay ... (tuy nhiên) một sự điều chỉnh luôn có khả năng xảy ra sau khi giá tăng mạnh”.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giao ngay giảm 0,3% xuống 20,90 USD/ounce, tính chung cả tuần giảm 3,7%; bạch kim giảm 0,4% xuống 976,67 USD, chứng kiến mức giảm hàng tuần lớn nhất kể từ giữa tháng 9, trong khi palladium giảm 3,3% xuống 1.940,14 USD, cũng giảm trong tuần.
Kim loại công nghiệp: Giá sắt thép tăng, kim loại cơ bản giảm
Giá đồng giảm liên tiếp 3 phiên cuối tuần do số ca nhiễm Covid-19 tăng ở Trung Quốc và khả năng tăng lãi suất của Fed.
Kết thúc phiên này, giá đồng giao sau 3 tháng trên sàn giao dịch kim loại London giảm 0,4% xuống 8.074 USD/tấn; giá đã giảm 5% trong tuần này, giảm từ mức cao nhất 5 tháng trong phiên cuối tuần trước. Giá đồng trên sàn Comex của Mỹ giảm 9% xuống 3,66 USD/lb.
Dấu hiệu nguồn cung đang tăng cũng gây sức ép lên giá đồng, với dự trữ trên sàn Thượng Hải tăng 12,7% trong tuần qua lên 85.817 tấn trong ngày 18/11.
USD mạnh lên khiến các hàng hóa định giá bằng đồng tiền này đắt hơn cho người mua bằng các ngoại tệ khác.
Một số yếu tố đã được cải thiện, như lạm phát của Mỹ sụt giảm và Trung Quốc hỗ trợ lĩnh vực bất động sản yếu kém của họ.
Về các kim loại quý khác, giá nhôm trên sàn LME tăng 1,4% lên 2,425 USD/tấn, niken tăng 1,3% lên 25,385 USD, kẽm tăng 1,5% lên 3,033 USD, chì tăng 0,4% lên 2,158,50 USD và thiếc tăng 0,1% lên 22.605 USD.
Giá quặng sắt tăng trong phiên cuối tuần, tính chung cả tuần tăng tuần thứ 3 liên tiếp do động thái mới nhất của Trung Quốc hỗ trợ nền kinh tế của họ.
Dự đoán Bắc Kinh sẽ thực hiện nhiều hành động hơn để hỗ trợ nền kinh tế này sau khi nới lỏng
một số hạn chế về Covid-19 và công bố các biện pháp mới để trợ giúp lĩnh vực bất động sản ốm yếu điều đó làm tăng thêm tâm trạng phấn khởi.
Giá quặng sắt giao tháng 1/2023 trên sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên đóng cửa tăng 3,3% lên
753,5 CNY (105,76 USD)/tấn. Trước đó giá đã đạt mức cao nhất kể từ ngày 1/8 tại 757,5 CNY. Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 12 trên sàn Thượng Hải tăng 2,1% lên 98,95 USD/tấn. Giá thép thanh tại Thượng Hải tăng tiếp 0,3%, trong khi thép cuộn cán nóng tăng 0,8%. Thép không gỉ giảm 0,8%.
Liu Shijin, một cố vấn chính sách của Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc (PBOC) cho biết Trung Quốc nên đặt mục tiêu tăng trưởng kinh tế không thấp hơn 5% trong năm 2023, ủng hộ lập trường tăng trưởng của Bắc Kinh.
Trung Quốc đã điều chỉnh nhẹ chiến lược zero Covid của họ ngay cả khi số lượng ca nhiễm mới đang tăng lên.
ANZ đã tăng dự báo sản lượng thép của Trung Quốc năm 2023 lên 1,05 tỷ tấn từ 1,01 tỷ tấn và dự kiến thị trường sắt sẽ vẫn thiếu hụt.
Nông sản: Giá ngô, đường và cao su tăng trong tuần, cà phê giảm
Giá ngũ cốc Mỹ tăng trong phiên cuối tuần, với đậu tương tăng do hoạt động mua bù thiếu, trong khi thị trường lúa mỳ tiếp tục giảm lượng bán quỹ mới trong bối cảnh lo ngại nhu cầu thế giới chậm lại vào cuối năm.
Hợp đồng lúa mì trên sàn giao dịch Chicago (CBOT) đóng của tăng 9-3/4 US cent lên 8,28-1/4 USD/bushel; ngô tăng 9-1/2 US cent lên 6,66-3/4 USD/bushel; đậu tương cũng tăng với hợp đồng kỳ hạn tháng 1 tăng 16-3/4 US cent lên 14,57-1/4 USD/bushel.
Nga được cho là đang đẩy mạnh nguồn cung tại các thị trường lúa mỳ đỏ cứng (HRW) vụ Đông truyền thống của Mỹ, trong đó có Brazil và Mexico. Giá chào bán ngô của Ukraine cũng giảm xuống do thỏa thuận ngũ cốc Biển Đen. Ukraine sẽ cố gắng xuất khẩu càng nhiều ngô và lúa mỳ càng tốt trong 120 ngày tới.
Brazil đã trở nên cạnh tranh hơn với giá chào bán đậu tương rẻ hơn so với Mỹ trong tuần này. Nhu cầu đậu tương thế giới sẽ chuyển hoàn toàn sang khu vực Nam Mỹ bắt đầu từ đầu tháng 12/2022.
Dự báo Argentina sẽ có mưa rào vào cuối tuần này, trong khi Brazil có khả năng sẽ có mưa rào hàng ngày vào tuần tới. Trận mưa lớn nhất sẽ đổ xuống khắp vùng đông bắc Brazil.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 3/2023 kết thúc phiên cuối tuần tăng 1,6% lên 20,05 US cent/lb, hướng tới mức cao nhất 7 tháng chạm tới hôm 16/11, là 20,48 US cent; đường trắng kỳ hạn tháng 3/2023 tăng 9,9 USD hay 1,9% lên 543,3 USD/tấn. Tính chung cả tuần, giá đường tăng.
Các đại lý cho biết thị trường này được hỗ trợ một phần bởi sự phục hồi đồng real của Brazil khi chính phủ sắp tới tìm cách xoa dịu những lo ngại về chi tiêu tài khóa. Đồng real mạnh lên không khuyến khích nông dân bán ra.
Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 3/2023 lúc đóng cửa giảm 0,8% xuống 1,551 USD/lb; cà phê robusta kỳ hạn tháng 1/2023 giảm 7 USD hay 0,4% xuống 1.811 USD/tấn. Tính chung cả tuần, giá cà phê giảm.
Các đại lý lưu ý xu hướng tổng thể vẫn là giảm giá, thị trường giảm hơn 30% kể từ cuối tháng 8, một phần do triển vọng vụ thu hoạch năm 2023 của Brazil cải thiện.
Giá cao su Nhật Bản giảm mặc dù thị trường Thượng Hải tăng do tâm lý nhu cầu tại Trung Quốc vẫn trái chiều sau khi chính quyền thông báo nới lỏng những hạn chế Covid-19 bất chấp số ca nhiễm đạt đỉnh mới. Hợp đồng cao su giao tháng 4/2023 trên sàn giao dịch Osaka đóng cửa giảm 0,7 JPY hay 0,3% xuống 217,2 JPY (1,55 USD)/kg; tính chung cả tuần giá tăng 0,1%. Tại Thượng Hải giá cao su kỳ hạn tháng 1/2023 tăng 10 CNY lên 12.755 CNY (1.790 USD)/tấn. Trên sàn Singapore, giá cao su kỳ hạn thang s 12 giảm 0,5% xuống 128,9 US cent/kg.
Giá hàng hóa thế giới
|
ĐVT
|
Giá 11/11
|
Giá 18/11
|
Giá 18/11 so với 17/11
|
Giá 18/11 so với 17/11 (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
89,12
|
80,00
|
-0,08
|
-0,10%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
96,21
|
86,82
|
-0,80
|
-0,91%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
72.870,00
|
68.710,00
|
-1.220,00
|
-1,74%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
6,03
|
6,23
|
-0,07
|
-1,09%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
263,10
|
240,39
|
-1,69
|
-0,70%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
361,63
|
348,41
|
-3,40
|
-0,97%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
997,50
|
948,25
|
+2,25
|
+0,24%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
83.000,00
|
80.500,00
|
0,00
|
0,00%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.763,90
|
1.761,70
|
-7,30
|
-0,41%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
7.861,00
|
7.868,00
|
-47,00
|
-0,59%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
21,60
|
20,92
|
-0,28
|
-1,30%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
94,00
|
93,90
|
0,00
|
0,00%
|
Bạch kim
|
USD/ounce
|
1.027,52
|
976,92
|
-4,95
|
-0,50%
|
Palađi
|
USD/ounce
|
2.026,23
|
1.922,74
|
-16,47
|
-0,85%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
387,85
|
362,60
|
-1,55
|
-0,43%
|
Đồng LME
|
USD/tấn
|
8.492,50
|
8.076,00
|
-34,00
|
-0,42%
|
Nhôm LME
|
USD/tấn
|
2.463,50
|
2.430,00
|
+39,00
|
+1,63%
|
Kẽm LME
|
USD/tấn
|
3.024,50
|
3.031,00
|
+44,00
|
+1,47%
|
Thiếc LME
|
USD/tấn
|
21.315,00
|
22.664,00
|
+80,00
|
+0,35%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
660,25
|
668,50
|
-1,50
|
-0,22%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
832,25
|
823,00
|
+1,00
|
+0,12%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
391,50
|
389,75
|
-1,25
|
-0,32%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
17,91
|
17,77
|
-0,02
|
-0,14%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
1.445,50
|
1.421,50
|
-6,75
|
-0,47%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
403,80
|
405,50
|
-0,60
|
-0,15%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
74,31
|
70,43
|
-0,18
|
-0,25%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
660,25
|
843,90
|
-3,10
|
-0,37%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
2.518,00
|
2.456,00
|
+9,00
|
+0,37%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
168,10
|
155,10
|
-1,25
|
-0,80%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
19,64
|
20,05
|
+0,32
|
+1,62%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
203,30
|
201,15
|
+0,15
|
+0,07%
|
Bông
|
US cent/lb
|
85,86
|
83,78
|
-1,50
|
-1,76%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
430,60
|
426,50
|
-13,90
|
-3,16%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
130,00
|
126,40
|
-3,50
|
-2,69%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
2,16
|
2,16
|
0,00
|
0,00%
|