Năng lượng: Giá dầu tăng tuần thứ 3 liên tiếp
Giá dầu thế giới tăng tuần thứ 3 liên tiếp, lên gần mức cao nhất trong 3 năm do sự gián đoạn nguồn cung trên toàn cầu đã buộc các công ty năng lượng phải sử dụng đến lượng dầu dự trữ và Trung Quốc tuyên bố công khai bán dầu dự trữ quốc gia.
Kết thúc phiên cuối tuần, dầu Brent Biển Bắc tăng 84 US cent, hay 1,1% lên 78,09 USD/thùng, trong khi giá dầu thô ngọt nhẹ Mỹ (WTI) tăng 68 US cent, hay 0,9% và đóng phiên ở mức 73,98 USD/thùng. Đây là mức đóng phiên cao nhất của dầu Brent kể từ tháng 10/2018 và dầu WTI kể từ tháng 7/2021.
Giá dầu Brent đã tăng ba tuần liên tiếp và chuỗi tăng này của dầu WTI là năm tuần liên tiếp, chủ yếu là do tình trạng gián đoạn sản xuất ở Vịnh Mexico của Mỹ do ảnh hưởng của bão Ida hồi cuối tháng Tám. Các nhà giao dịch lo ngại tình trạng này có thể kéo dài trong nhiều tháng và đã khiến lượng dầu dự trữ của Mỹ và trên cả toàn cầu giảm mạnh.
Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) cho biết dự trữ dầu thô của nước này trong tuần trước đã giảm 3,5 triệu thùng xuống 414 triệu thùng, mức thấp nhất kể từ tháng 10/2018. Các công ty lọc dầu của Mỹ đang tìm kiếm nguồn cung dầu thô từ Iraq và Canada để thay thế cho nguồn cung dầu từ Vịnh Mexico hiện đang bị đình trệ.
Trong khi đó, nhiều nước thành viên của Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) và các nước đồng minh, hay còn gọi là OPEC+, vẫn đang gặp khó khăn trong việc gia tăng sản lượng do tình trạng thiếu đầu tư và trì hoãn hoạt động bảo dưỡng nhà máy trong thời gian đại dịch.
Trung Quốc lần đầu tiên công khai bán dầu từ kho dự trữ quốc gia. Nhiều nguồn tin cho hay hai công ty PetroChina và Hengli Petrochemical đã mua khoảng 4,43 triệu thùng từ nguồn này.
Các chuyên gia của ngân hàng UBS (Thụy Sỹ) dự đoán giá dầu Brent có thể chạm mốc 80 USD/thùng vào cuối tháng Chín do lượng dầu dự trữ và sản lượng của OPEC đều giảm xuống, trong khi nhu cầu ở khu vực Trung Đông lại gia tăng.
Kim loại quý: Giá vàng giảm tuần thứ 3 liên tiếp
Phiên cuối tuần, giá vàng tăng do USD yếu đi và các nhà đầu tư tránh các tài sản rủi ro bởi lo sợ về Evergrande vỡ nợ, nhưng việc Fed tuyên bố sắp tăng lãi suất đã cản trở đà tăng của vàng.
Cuối phiên này, giá vàng giao ngay tăng 0,4% lên 1.750 USD/ounce, nhưng tính chung cả tuần vẫn giảm tuần thứ 3 liên tiếp. Vàng kỳ hạn tháng 12 đóng cửa tăng 0,1% lên 1.751,7 USD/ounce.
Giá vàng đã giảm xuống mức thấp nhất một tháng trong ngày 23/9, do dự đoán Cục dự trữ Liên bang Mỹ có thể tăng lãi suất. Nhưng USD suy yếu trong ngày 24/9 đã có một số hỗ trợ, khiến vàng rẻ hơn cho người mua bằng các đồng tiền khác.
Bên cạnh đó, giá vàng cũng được hỗ trợ sau khi các nhà đầu tư của Evergrande tại Mỹ cho biết vẫn chưa nhận được tiền lãi trái phiếu.
Ông Edward Moya, chuyên gia phân tích thị trường cấp cao của công ty dịch vụ môi giới OANDA (Mỹ), cho rằng Trung Quốc có khả năng sẽ không cứu Evergrande nhưng sẽ cố hạn chế những rủi ro hệ thống từ sự sụp đổ của “ông lớn” này.
Trung Quốc ngày 24/9 đã một lần nữa nhấn mạnh lập trường "cứng rắn" đối với các đồng tiền kỹ thuật số. Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc (PBoC – ngân hàng trung ương) tuyên bố tiền số không có địa vị pháp lý như đồng tiền hợp pháp. Ông Chintan Karnani, giám đốc nghiên cứu của công ty tư vấn Insignia Consultants (Ấn Độ) nhận định giá vàng sẽ vượt mức 1.840 USD/ounce nếu Trung Quốc khẳng định sẽ loại bỏ tiền số.
Tuy nhiên, giá vàng vẫn chịu áp lực từ đường hướng chính sách của Fed. Ngân hàng trung ương Mỹ ngày 22/9 đã phát đi tín hiệu cho thấy ý định sớm cắt giảm chương trình mua trái phiếu và nâng lãi suất trước cuối năm sau. Điều này có thể làm giảm nhu cầu đối với vàng nếu giới đầu tư chuyển sang các loại tài sản có sinh lãi.
Tuần qua, giá vàng kỳ hạn tăng lên trong ba phiên đầu tuần, do những lo ngại về khả năng thanh toán của tập đoàn bất động sản Trung Quốc Evergrande đã làm dấy lên một “cuộc đổ bộ” đến các tài sản an toàn. Tuy nhiên, đà tăng này phần nào bị hạn chế bởi những đồn đoán xung quanh đường hướng chính sách của Fed.
Tính chung cả tuần, giá vàng chỉ tăng 30 US cent so với mức khép phiên cuối cùng của tuần trước, theo số liệu của công ty dữ liệu tài chính FactSet (Mỹ).
Kim loại công nghiệ: Giá thiếc cao kỷ lục trong phiên cuối tuần, quặng sắt cũng tăng
Giá thiếc vọt lên mức cao nhất trong lịch sử do các vấn đề về nguồn cung kéo dài và tồn kho thấp, mặc dù tình trạng không chắc chắn liên quan tới tập đoàn Evergrande của Trung Quốc đã hạn chế đà tăng.
Phiên 24/9, giá thiếc trên sàn giao dịch kim loại LME tăng lên mức kỷ lục 36.830 USD/tấn, cuối phiên tăng 3,5% lên 36.700 USD/tấn.
Giá kim loại này được hỗ trợ bởi gián đoạn nguồn cung tại các quốc gia sản xuất chính và nhu cầu bùng nổ đối với thiết bị điện tử, kim loại này được dùng để hàn các lĩnh kiện điện tử. Giá thiếc LME cũng theo xu hướng giá kỷ lục trên sàn Thượng Hải, nơi tồn kho là thấp. Thiếu hụt thiếc toàn cầu dự kiến tăng lên 12.700 tấn trong năm 2022 từ 10.200 tấn trong năm nay.
Lượng thiếc lưu kho trên sàn Thượng Hải ở mức 1.551 tấn, gần mức thấp nhất kể từ tháng 4/2016, lượng thiếc lưu kho trên sàn LME giảm 25 tấn xuống 1.155 tấn, một nửa số đó đã được đặt để giao hàng.
Về các kim loại cơ bản khác, giá đồng tăng 0,9% lên 9.363 USD/tấn, nhôm giảm 0,7% xuống 2.929 USD/tấn, kẽm tăng 1% lên 3.121 USD/tấn, chì tăng 1,7% lên 2.157 USD/tấn, trong khi nickel vững ở 19.365 USD/tấn.
Bộ Đầu tư Indonesia đang cân nhắc kế hoạch cấm hoặc hạn chế xuất khẩu các sản phẩm nickel đã qua chế biến có hàm lượng nickel dưới 70%. Ngành công nghiệp chế biến của Indonesia chủ yếu sản xuất các sản phẩm có hàm lượng nickel thấp như ferronickel và nickel gang.
Giá quặng sắt tại Trung Quốc tăng liên tiếp 2 phiên cuối tuần với mức tăng trên 4%, mặc dù nhu cầu thành phần sản xuất thép này dự kiến ở mức thấp trong bối cảnh những hạn chế liên quan tới môi trường.
Quặng sắt kỳ hạn tháng 1 trên sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên tăng khoảng 4,2% lên 696 CNY (107,74 USD)/tấn trong phiên sáng. Kết thúc ngày 24/9 quặng sắt tăng 2,5% và tính chung cả tuần tăng 8,8%. Theo công ty tư vấn SteelHome, giá quặng sắt giao ngay hàm lượng 62% Fe ở Trung Quốc tăng 4 USD lên 109 USD/tấn.
Giá thép tại sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải sụt giảm. Thép thanh dùng trong xây dựng giảm 2,8% xuống 5.468 CNY/tấn. Thép cuộn cán nóng giảm 2,9% xuống 5.511 CNY/tấn. Thép không gỉ kỳ hạn tháng 10 giảm 4,7% xuống 20.945 CNY/tấn.
Tuy nhiên, giới phân tích dự kiến sự phục hồi này sẽ không kéo dài do nhu cầu quặng sắt vẫn thấp bởi việc cắt giảm sản xuất tại các nhà máy.
Nông sản: Giá lúa mì, cà phê và đường tăng
Trên thị trường nông sản Mỹ, giá các mặt hàng nông sản trên sàn giao dịch Chicago của Mỹ (CBOT) biến động trái chiều trong phiên giao dịch cuối tuần 24/9, với giá lúa mì tại Chicago đóng cửa gần mức cao nhất trong hai tuần, tính chung cả tuần tăng tuần thứ 2 liên tiếp do giá thế giới tăng, nhu cầu mạnh và USD suy yếu. Giá lúa mì trên sàn giao dịch Chicago tăng 6 US cent lên 7,23-3/4 USD/bushel, trước đó giá đã đạt 7,25-3/4 USD, cao nhất kể từ ngày 7/9. Tính cả tuần lúa mì tăng 2,12%.
Giá ngô giảm do áp lực nguồn cung từ vụ thu hoạch của Mỹ sắp diễn ra, trong khi đậu tương tăng. Theo đó, đậu tương CBOT đóng cửa tăng 3/4 US cent lên 12,85 USD/bushel, tính chung cả tuần chỉ tăng 1 US cent, trong khi ngô giảm 2-1/2 US cent xuống 5,26-3/4 USD/bushel, cả tuần giảm 1/2 US cent.
Sản lượng ngô của Ukraine, với 4% đã thu hoạch, chỉ đạt 77,2 bushels/mẫu Anh (1 mẫu Anh = 0,4ha). Con số này cải thiện một chút so với năm ngoái nhưng thấp hơn nhiều so với dự báo 115 bushels/mẫu Anh cho toàn bộ vụ thu hoạch. Trong bối cảnh thế giới đang đối mặt với tình trạng thiếu thức ăn chăn nuôi, kết quả vụ thu hoạch ngô năm 2021 của Ukraine đang đóng vai trò thực sự quan trọng.
Một loạt cuộc đấu thầu của các nhà nhập khẩu, vụ thu hoạch thất bát tại bắc bán cầu và những tin đồn về hạn chế xuất khẩu của Nga tất cả đều hỗ trợ giá lúa mì trong tuần này.
Khối lượng giao dịch tại CBOT khá hạn chế trong phiên này, trước khi khu vực Trung Tây nước Mỹ bước vào cao điểm thu hoạch vào cuối tuần. Các nhà máy sản xuất ethanol đang bắt đầu tích cực hơn trong việc mua vào ngô do lo ngại rằng tiến độ thu hoạch sẽ khiến họ không mua được lượng ngô như kế hoạch đề ra. Trong khi đó, các nông dân trồng ngô tiếp tục thông báo về năng suất ngô đáng thất vọng trong niên vụ này.
Đường thô kỳ hạn tháng 10 giảm 2% xuống 19,10 US cent/lb; đường trắng kỳ hạn tháng 12 đóng cửa giảm 9,1 USD hay 1,8% xuống 504,3 USD/tấn.
Các đại lý cho biết thị trường có thể tăng trong ngắn hạn, sản lượng tiếp tục thất vọng tại Brazil. Xuất khẩu từ Ấn Độ, một nhà sản xuất chủ chốt đang giảm khi thị trường nội địa phục hồi.
Phiên cuối tuần, giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 12 đóng cửa tăng 2% lên 1.9435 USD/lb; cà phê robusta kỳ hạn tháng 11 tăng 2 USD lên 2.138 USD/tấn sau khi thiết lập mức cao nhất 4 năm tại 2.180 USD/tấn trong ngày 23/9.
Giá cà phê Arabica bật tăng liên tiếp, với mức tăng tới 6,43% trong 4 phiên liên tiếp vừa qua, do vẫn còn nguyên mối lo khô hạn ở khu vực vành đai trồng cà phê ở Brazil, mặc dù họ dự kiến sẽ có những trận mua cần thiết từ cuối tuần trở đi tại các khu vực trồng cà phê của Brazil.
Các nhà nông sản học cho biết mưa mùa Xuân chỉ bắt đầu phủ khắp để kích thích cây cà phê ra hoa vào đầu tháng Mười, trong khi khô hạn hiện tại là giai đoạn rất cần thiết để cây phân hóa mầm hoa vụ mới. Có vẻ thị trường đã quá lo lắng sau đợt sương giá gây hại vào tháng 7/2021 và nguy cơ sụt giảm sản lượng vào năm 2022.
Giá hàng hóa thế giới tuần qua

 

ĐVT

Giá 17/9

Giá 24/9

Giá 24/9 so với 23/9

24/9 so với 23/9 (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

71,97

73,98

+0,68

+0,93%

Dầu Brent

USD/thùng

75,34

78,09

+0,84

+1,09%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

48.100,00

46.590,00

+240,00

+0,52%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

5,11

5,14

+0,16

+3,30%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

217,13

218,75

+1,60

+0,74%

Dầu đốt

US cent/gallon

220,91

226,71

+1,80

+0,80%

Dầu khí

USD/tấn

631,50

655,25

+7,25

+1,12%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

63.210,00

65.360,00

+160,00

+0,25%

Vàng New York

USD/ounce

1.751,40

1.751,70

+1,90

+0,11%

Vàng TOCOM

JPY/g

6.227,00

6.229,00

-6,00

-0,10%

Bạc New York

USD/ounce

22,34

22,43

-0,25

-1,12%

Bạc TOCOM

JPY/g

81,10

79,40

-1,30

-1,61%

Bạch kim

USD/ounce

942,79

985,36

-6,90

-0,70%

Palađi

USD/ounce

2.017,00

1.972,96

-12,93

-0,65%

Đồng New York

US cent/lb

424,60

428,55

+5,45

+1,29%

Đồng LME

USD/tấn

9.312,00

9.332,50

+59,00

+0,64%

Nhôm LME

USD/tấn

2.885,50

2.915,50

-34,00

-1,15%

Kẽm LME

USD/tấn

3.088,00

3.128,50

+37,50

+1,21%

Thiếc LME

USD/tấn

34.140,00

36.539,00

+1.079,00

+3,04%

Ngô

US cent/bushel

527,25

526,75

-2,50

-0,47%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

708,75

723,75

+6,00

+0,84%

Lúa mạch

US cent/bushel

542,75

575,25

-4,75

-0,82%

Gạo thô

USD/cwt

13,78

13,90

+0,07

+0,51%

Đậu tương

US cent/bushel

1.284,00

1.285,00

+0,75

+0,06%

Khô đậu tương

USD/tấn

342,20

339,00

-1,10

-0,32%

Dầu đậu tương

US cent/lb

56,26

57,87

+0,85

+1,49%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

873,70

887,90

+11,00

+1,25%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.665,00

2.591,00

-21,00

-0,80%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

186,40

194,35

+3,75

+1,97%

Đường thô

US cent/lb

19,86

19,93

-0,36

-1,77%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

139,60

138,65

-1,75

-1,25%

Bông

US cent/lb

92,33

95,99

+3,53

+3,82%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

634,00

643,00

+4,20

+0,66%

Cao su TOCOM

JPY/kg

164,70

159,90

+0,10

+0,06%

Ethanol CME

USD/gallon

2,21

2,21

0,00

0,00%

 

 

Nguồn: Vinanet / VITIC / Reuters, Bloomberg