Tính từ đầu tuần (11/2) đến ngày 14/2 giá cà phê các tỉnh Tây Nguyên trên đà tăng từ 500-700 nghìn lên 34,9 – 35,4 triệu đồng/tấn. Sang ngày cuối tuần (15/2), giá cà phê nhân xô trong nước giảm 200 nghìn chốt ở mức 34,8-35,2 triệu đồng/tấn.
Tại cảng TPHCM ngày 15/2, giá cà phê robusta theo giá FOB sau khi tăng lên đến 1.802 USD/tấn thì sang ngày 15/2 giá đã giảm 16 USD xuống 1.786 USD/tấn.
Tham khảo giá cà phê nhân xô
TT nhân xô
|
Ngày 11/2
|
Ngày 13/2
|
Ngày 14/2
|
Ngày 15/2
|
FOB (HCM)
|
1.770
|
1.798
|
1.802
|
1.786
|
Đắc Lắc
|
34.700
|
35.100
|
35.200
|
35.000
|
Lâm Đồng
|
34.200
|
34.800
|
34.900
|
34.800
|
Gia Lai
|
34.900
|
35.300
|
35.400
|
35.200
|
Đơn vị tính: VND/kg FOB: USD/tấn
Lâm Đồng là tỉnh có diện tích sản xuất cà phê lớn thứ hai trên cả nước (sau Đắk Lắk), hiện có 145.000ha cà phê.
Hôm 14/2, hội người sản xuất cà phê bền vững tỉnh Lâm Đồng đã đi vào hoạt động. Việc thành lập hội có giá trị làm tăng diện tích sản xuất cà phê bền vững theo các tiêu chuẩn quốc tế đồng thời tăng sản lượng cà phê xuất khẩu và có kế hoạch hỗ trợ nông dân sản xuất cà phê sạch chất lượng cao.
Trong tuần qua, thị trường cà phê thế giới nhìn chung tăng giá. Giá cà phê Robusta kỳ hạn tăng 39 USD/tấn, tương đương tăng 2,21 % còn giá cà phê Arabica kỳ hạn tăng 4,45 cent/lb, tức tăng 3,23 %, mức tăng lớn nhất.
Tuy nhiên đến ngày 15/2, thị trường cà phê thế giới trên sàn NYSE Liffe và sàn ICE đã có xu hướng trái chiều nhau.
Tại thị trường London, giá cà phê robusta trên sàn Liffe được điều chỉnh giảm ở tất cả các kỳ hạn. Mức giảm nhiều nhất ở kỳ hạn tháng 5 với sự thay đổi 16 USD (tương đương 0,89%) xuống 1.806 USD/tấn. Kỳ hạn tháng 9 có mức giảm ít nhất với 4 USD (tương đương 0,23%) xuống 1.771 USD/tấn.
Giá cà phê robusta tại London
Kỳ hạn
|
Giá
|
Thay đổi
|
% thay đổi
|
Khối lượng
|
Cao nhất
|
Thấp nhất
|
Mở cửa
|
HĐ mở
|
03/14
|
1810
|
-14
|
-0,77 %
|
3632
|
1824
|
1795
|
1824
|
|
05/14
|
1806
|
-16
|
-0,89 %
|
7728
|
1813
|
1792
|
1808
|
|
07/14
|
1781
|
-8
|
-0,45 %
|
2873
|
1784
|
1762
|
1775
|
|
09/14
|
1771
|
-4
|
-0,23 %
|
512
|
1773
|
1751
|
1764
|
|
Đơn vị tính: USD/tấn
Trái với diễn biến trên thị trường London, giá cà phê Arabica tại thị trường NewYork lại có dấu cộng ở tất cả các kỳ hạn. Mức tăng nhiều nhất ở kỳ hạn tháng 5, tháng 7 lên 0,24-0,25%. Hợp đồng kỳ hạn tháng 5 tăng tuần thứ ba liên tiếp với đà tăng chậm lại do nhà sản xuất bán ra đã thu hút một số nhà đầu tư mua vào. Mức giá cao nhất chốt ở 147,2 cent/lb tại kỳ hạn tháng 9. Kỳ hạn tháng 3 thay đổi ít nhất 0,2 USD (tương đương 0,14%) lên 139,9 cent/lb.
Giá cà phê arabica tại NewYork
Kỳ hạn
|
Giá
|
Thay đổi
|
% thay đổi
|
Khối lượng
|
Cao nhất
|
Thấp nhất
|
Mở cửa
|
HĐ mở
|
03/14
|
139,9
|
+0,2
|
+0,14 %
|
19047
|
140,6
|
137,2
|
137,9
|
|
05/14
|
142,3
|
+0,35
|
+0,25 %
|
27727
|
142,9
|
139,45
|
140,1
|
|
07/14
|
144,35
|
+0,35
|
+0,24 %
|
7480
|
144,85
|
141,55
|
142,45
|
|
09/14
|
146,2
|
+0,3
|
+0,21 %
|
2347
|
146,6
|
143,45
|
144,55
|
|
Đơn vị tính: USD Cent/lb
Khả năng cắt giảm dần gói kích thích kinh tế (QE3) của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED)
khiến chỉ số USD tiếp tục suy giảm làm hầu hết các thị trường hàng hóa biến động mạnh. Người bán cà phê thì có xu hướng găm hàng lại vì tin rằng nay mai giá sẽ cao hơn do ảnh hưởng của hạn hán tại Brazil và thị trường cà phê đang thiếu hụt.
Thời tiết khô trong suốt những tuần qua đã gây tổn thất 30% tới vụ năm 2014, một hợp tác xã của Brazil cho biết.
Tuy nhiên theo dự báo có đợt mưa rải rác tại nhiều vùng trồng cà phê của Brazil trong đó có bang Minas Gerais – vùng trồng cà phê lớn nhất của nước này làm giá cà phê các sàn kỳ hạn cũng dịu bớt sau những đợt tăng mạnh và biến động thất thường.
Hòa Phạm
Nguồn: Vinanet/Giacaphe