Tham khảo giá cà phê nhân xô tại Việt Nam
Diễn đàn của người làm cà phê
TT nhân xô
|
Giá trung bình
|
Thay đổi
|
FOB (HCM)
|
1.281
|
Trừ lùi: +80
|
Đắk Lăk
|
31.900
|
+400
|
Lâm Đồng
|
31.300
|
+400
|
Gia Lai
|
31.700
|
+400
|
Đắk Nông
|
31.700
|
+400
|
Hồ tiêu
|
50.000
|
0
|
Tỷ giá USD/VND
|
23.140
|
0
|
Đơn vị tính: VND/kg|FOB: USD($)/tấn
|
Trên thị trường thế giới, hai sàn giao dịch đã có diễn biến cùng chiều. Giá arabica kỳ hạn tháng 7/2020 cộng 0,9 cent, tương đương 0,92% lên mức 99,1 US cent/lb; robusta giao cùng kỳ hạn tăng 23 USD, tương đương 1,95% lên mức 1.202 USD/tấn.
Giá cà phê Robusta giao dịch tại London
Kỳ hạn
|
Giá
|
Thay đổi
|
% thay đổi
|
Khối lượng
|
Cao nhất
|
Thấp nhất
|
Mở cửa
|
HĐ mở
|
07/20
|
1202
|
+23
|
+1.95 %
|
11144
|
1205
|
1177
|
1186
|
52616
|
09/20
|
1218
|
+20
|
+1.67 %
|
8447
|
1220
|
1194
|
1206
|
43632
|
11/20
|
1236
|
+19
|
+1.56 %
|
1529
|
1238
|
1213
|
1224
|
20023
|
01/21
|
1254
|
+18
|
+1.46 %
|
420
|
1255
|
1232
|
1243
|
11124
|
Đơn vị tính: USD($)/ Tấn | Đơn vị giao dịch: lot = 10 tấn
|
Giá cà phê Arabica giao dịch tại New York
Kỳ hạn
|
Giá
|
Thay đổi
|
% thay đổi
|
Khối lượng
|
Cao nhất
|
Thấp nhất
|
Mở cửa
|
HĐ mở
|
07/20
|
99.10
|
+0.9
|
+0.92 %
|
16879
|
100.75
|
97.90
|
98.50
|
82568
|
09/20
|
100.55
|
+0.8
|
+0.8 %
|
12595
|
102.40
|
99.55
|
100.10
|
59378
|
12/20
|
102.80
|
+0.7
|
+0.69 %
|
3776
|
104.75
|
101.90
|
102.60
|
57583
|
03/21
|
105
|
+0.6
|
+0.57 %
|
3944
|
107
|
104.20
|
105
|
29846
|
Đơn vị tính: USD Cent/lb | 1USD = 100cent | 1Lb ~= 0.45Kg | Đơn vị giao dịch: lot = 37,500 lb
|
Giá arabica phiên này hồi phục giữa bối cảnh sản lượng cà phê của Brazil năm nay dự kiến tiếp tục ở mức cao như năm ngoái. Trong khi đó, giá cà phê kỳ hạn trên sàn London tăng khi thị trường châu Âu mở cửa hoạt động trở lại. Mặc dù lo ngại thời tiết sương giá nhưng sức bán cà phê vụ mới từ Brazil vẫn mạnh.
Sản lượng cà phê của Ethiopia (chủ yếu là arabica) trong vụ 2020/21 dự kiến tăng lên 7,5 triệu bao (loại 60 kg). Ước tính này dựa trên giả định sự gián đoạn do COVID-19 ở mức tối thiểu, giống cây mới được đưa vào sản xuất ở khu vực phía Tây, lượng mưa nhiều và ít sâu bệnh ít hơn so với các năm trước, giúp sản lượng tăng mạnh.
Nông dân cũng tiếp tục được hưởng lợi từ các chương trình khuyến nông từ chính phủ và các tổ chức phi chính phủ trong việc sản xuất và tiếp thị cà phê.
Trong khi đó, tiêu thụ cà phê tại thị trường nội địa nước này trong vụ 2019/20 ước tính đạt 3,14 triệu bao, thấp hơn 50.000 bao so với năm ngoái, chủ yếu là do các biện pháp giãn cách xã hội dẫn đến nhu cầu tại các quán cà phê giảm.
Dự báo tiêu thụ cà phê trong vụ 2020/21 sẽ đạt 3,4 triệu bao, tăng 260.000 bao. Ước tính này giả định rằng mức tiêu thụ trở lại bình thường sau đại dịch COVID-19.