Niên vụ nhiều bất ổn
“Bất thường”, “chưa từng có” là những cụm từ được ông Đỗ Hà Nam, Phó Chủ tịch Hiệp hội Cà phê – Ca cao Việt Nam (Vicofa) nhắc đi nhắc lại rất nhiều lần tại Hội nghị Quốc tế cà phê châu Á (Coffee Outlook) khi nói về niên vụ cà phê 2022/2023 vừa qua. Trước tiên là câu chuyện giá cà phê tăng lên mức cao nhất trong 30 năm qua dẫn tới một sự cố chưa từng có trong lịch sử là đến tháng 6, Việt Nam đã không còn cà phê để xuất khẩu.
Bên cạnh đó là sự sụt giảm một cách bất thường của diện tích trồng cà phê tại Việt Nam. Theo số liệu của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Việt Nam hiện có trên 700.000 ha cà phê, nhưng ông Nam cho rằng, số liệu thực tế có thể chỉ còn khoảng 600.000 ha và đang tiếp tục bị thu hẹp do phải cạnh tranh với các loại cây ăn quả khác như bơ, sầu riêng… có lợi nhuận cao hơn. “Hiện 1 ha cà phê của Việt Nam cho lợi nhuận 100-200 triệu đồng/năm, nhưng nếu trồng bơ thì lợi nhuận có thể đạt tới 1-1,5 tỷ đồng, nên người nông dân có xu hướng lựa chọn những cây trồng cho giá trị cao hơn. Đây là điều mà Chính phủ cũng không thể can thiệp được” – ông Nam cho biết.
Giá cà phê biến động khó lường đã gây ra một chuỗi khó khăn đối với các nhà xuất khẩu. Niên vụ 2022/2023 đã xảy ra sự cố là một số nhà cung ứng nội địa không giao hàng đúng hợp đồng do giá tăng cao và bản thân các nhà cung ứng cũng không mua được hàng, thậm chí bị găm hàng, bị hủy hợp đồng. “Từ tháng 6 đến tháng 10, các DN gần như vỡ trận vì không có hàng giao theo hợp đồng. Đây là điều rất bất thường vì ngành cà phê Việt Nam vốn được đánh giá là có uy tín rất cao với các đối tác mua hàng. Trong 30 năm qua chưa bao giờ chúng tôi nghĩ Việt Nam có thể thiếu hàng” – ông Nam nhấn mạnh. Thậm chí, trong năm vừa qua, Việt Nam đã phải nhập khẩu gần 100.000 tấn cà phê từ Brazil, Indonesia để trả nợ cho các hợp đồng. Đây là điều này chưa từng có trong lịch sử của ngành cà phê Việt Nam.
Theo ước tính của Vicofa, số lượng cà phê đã ký hợp đồng của vụ cũ nhưng chưa có hàng để giao hiện vẫn còn khoảng 80.000 – 150.000 tấn và phải chờ vụ mới để giao. Trong tháng 11/2023, Việt Nam đã xuất khẩu khoảng 200.000 tấn cà phê nhưng Vicofa ước tính một nửa trong số này là để trả nợ cho vụ cũ.
Ông Nguyễn Nam Hải, Chủ tịch Vicofa cho biết, trong năm 2023, xuất khẩu cà phê giảm cả về sản lượng và giá trị. Cụ thể, sản lượng xuất khẩu 11 tháng đạt khoảng gần 1,4 triệu tấn với tổng kim ngạch khoảng 3,5 tỷ USD, giảm 13% về lượng và khoảng 3% về trị giá so với cùng kỳ của năm 2023.
Hệ lụy cho niên vụ mới
Đánh giá về niên vụ 2023/2024, Vicofa dự báo sản lượng có thể giảm từ 5-10%, tương ứng mức sản lượng chỉ đạt khoảng 1,6 – 1,7 triệu tấn và sản lượng xuất khẩu dự kiến sẽ chỉ đạt khoảng 1,4 triệu tấn. “Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam không còn hàng tồn kho, trong khi những năm trước là khoảng 200.000 – 300.000 tấn” – ông Đỗ Hà Nam cho biết.
Đầu vụ mới, cà phê nhân đã được chào bán ở mức 60.000 đồng/kg, giao từ tháng 12/2023 đến tháng 1/2024 - mức giá chưa từng có ở thời điểm đầu vụ do nhu cầu mua lớn của các DN. Thậm chí, lần đầu tiên trong lịch sử, không chỉ các DN trong nước mà cả các DN FDI cũng mua cà phê non (mua trước khi thu hoạch). Đặc biệt, điều mà các DN xuất khẩu đều đang rất lo lắng là nếu như trong năm 2023, đến tháng 6 Việt Nam đã không còn cà phê để mua, thì sang năm 2024 có thể đến tháng 5, thậm chí là tháng 4 đã hết hàng.
Do lượng hàng tại các nước hiện còn không đáng kể, nên thị trường châu Âu đang rất cần cà phê Việt Nam, ít nhất đến tháng 4 khi Indonesia và Brazil vào vụ thu hoạch mới. “Mọi người đều đang rất lo lắng về điều này. Nếu tất cả đổ dồn về Việt Nam để mua cà phê nguồn cung sẽ rất căng thẳng. Do đó, dự báo giá cà phê sẽ tiếp tục tăng và có thể cà phê nhân Việt Nam sẽ đắt nhất thế giới trong năm 2024” – ông Nam dự báo. Chính vì vậy, hiện các DN Việt Nam hầu như không bán xa vì sợ không mua được hàng, dẫn tới rủi ro rất lớn cho DN.
Trong bối cảnh nguồn cung căng thẳng, ngành cà phê Việt Nam cũng đang tập trung nhiều giải pháp cho việc phát triển bền vững, truy xuất nguồn gốc, đặc biệt là việc đáp ứng quy định chống mất rừng EUDR của EU. Hiện các nhà rang xay lớn của thế giới như JDE, Nestle, Tchibo… đang phối hợp với các chính phủ, tổ chức quốc tế, DN… để xây dựng các chương trình cà phê bền vững cũng như cam kết tăng mạnh sản lượng cà phê có chứng nhận trong các năm tới.
Ông Nguyễn Nam Hải cho biết, đối với quy định của Nghị viện châu Âu về chống phá rừng và gây suy thoái rừng (EUDR), Việt Nam là một trong những nước tham gia tích cực nhất trong việc thể hiện trách nhiệm bảo vệ môi trường và bảo vệ thiên nhiên. Ngay từ tháng 4/2023, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã tổ chức rất nhiều cuộc họp với các địa phương, hiệp hội, các tổ chức phi chính phủ để bàn bạc tìm ra lộ trình để thực hiện theo EUDR.
Theo đánh giá của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, tính từ sau năm 2000 Việt Nam chỉ có 220 ha bị ảnh hưởng bởi vấn đề truy xuất nguồn gốc liên quan đến phá rừng. Do đó, ảnh hưởng của cà phê Việt Nam đối với vấn đề chống phá rừng là rất nhỏ.
Ông Đỗ Hà Nam kỳ vọng: “Với sự vào cuộc của Chính phủ, việc đáp ứng quy định của EU không phải là quá khó. Quan trọng là EU sử dụng công cụ gì để Việt Nam có thể cung cấp các tài liệu nhằm đảm bảo khi hàng hóa Việt Nam xuất khẩu sang châu Âu sẽ không xảy ra sự cố”.