Kinh tế thế giới đang phải chịu ảnh hưởng từ đợt giảm phát lần thứ 3 trong gần 10 năm qua. Lần đầu tiên là đợt khủng hoảng nhà đất và tài chính diễn ra tại Mỹ, lần thứ hai là khủng hoảng tại khu vực Eurozone năm 2011-12 và lần thứ 3 là khủng hoảng tại các thị trường mới nổi.
Cuộc khủng hoảng tại thị trường mới nổi đều bắt nguồn từ thị trường ngoại tệ trước khi lan rộng ra các ngành khác như hàng hóa, tín dụng, vốn và cuối cùng là kinh tế.
Trong các tháng tới, chúng ta có thẻ thấy chứng khoán các thị trường mới nổi chạm đáy nhưng kinh nghiệm vừa qua cho thấy sẽ mất nhiều năm khan hiếm nguồn vốn để có thể khôi phục lại kỷ cương sau nhiều năm đầu tư quá đà. Giai đoạn 2002-2007 được xem là thời kỳ vàng.
Ảnh hưởng của khủng hoảng thị trường mới nổi này lên các nước phát triển cũng hơi khác trong thời gian này. Trong năm 1997, nó đã tạo lên cơn sốc giá, làm tăng giá trị và mức tiêu thụ thực tế tại các nước phát triển. Trong khi, khủng hoảng mới này sẽ gây nên cú sốc cả giá và lượng do mối tương quan lớn hơn với GDP thế giới và quy mô các doanh nghiệp toàn cầu.
Cuộc khủng hoảng này còn ảnh hưởng đến các nước phát triển. Ảnh hưởng của đợt lạm phát lần 3 này đã lan đến vùng biển Michigan. Giá khí đốt giảm cùng với giá hàng hóa sản xuất tại châu Á cũng giảm. Chính sách thắt chặt tiền tệ của Mỹ, đồng USD mạnh hơn sẽ càng gây áp lực lên tình hình giảm phát.
Những tác động của làn sóng giảm phát thứ ba vẫn chưa chạm đến nước Mỹ, bất chấp thị trường lao động Mỹ chưa thực sự diễn biến như ý muốn. Nước Mỹ đã cảm nhận được giá xăng dầu xuống thấp, nhưng vẫn chưa bị tác động bởi sự sụt giảm trong giá hàng hóa nhập khẩu từ châu Á. Chính sách tiền tệ bị thắt chặt và 1 đồng USD mạnh hơn sẽ khiến Mỹ cảm nhận được những tác động này rõ ràng hơn.
Trong khi đó, có thể dễ dàng nhìn thấy cú sốc về lượng trong các số liệu thương mại giữa các nước phát triển và đang phát triển. Mới đây Financial Times đã lưu ý rằng phá giá tiền tệ đã thất bại trong việc thúc đẩy xuất khẩu và còn hạn chế nhập khẩu. Cộng lại, phá giá tiền tệ đang triệt tiêu thương mại toàn cầu.
Bởi vậy, nước Mỹ nên mở rộng thâm hụt thương mại và lấp đầy khoảng trống về lực cầu, bù đắp lại sự giảm sút sức mua ở các nước đang phát triển. Đối với điều này, động thái nâng lãi suất sẽ không thể giúp ích gì.
Cơn sóng giảm phát thứ ba đồng nghĩa với GDP toàn cầu sẽ tiếp tục ở dưới mức sản lượng tiềm năng. Giá cả luôn phải chịu áp lực giảm và các nước đang phát triển sẽ phải giảm nguồn cung để giá có thể ổn định trở lại. GDP toàn cầu giảm thêm là điều không thể tránh khỏi.
Cuộc đua phá giá không phải là một lối thoái cho các nước đang phát triển. Ngược lại, nó khiến cú sốc về giá và khối lượng càng trầm trọng hơn. Fed nâng lãi suất và 1 đồng USD mạnh lên cũng đem lại kết quả tương tự.
Vào đầu năm nay, một số chuyên gia đã lên tiếng lo ngại về kịch bản giảm phát, nhưng vẫn hi vọng rằng tiêu dùng ở Mỹ phục hồi sẽ giúp cải thiện tình hình. Tuy nhiên, thời kỳ tăng trưởng chậm chạp và lãi suất thấp vẫn kéo dài dai dẳng.
Cuối cùng thì các nhà đầu tư vẫn đang phải đối mặt với những câu hỏi hóc búa. Mức lãi suất âm cho các khoản tiền gửi tại ngân hàng không phải là con đường dẫn đến thịnh vượng, trong khi các tài sản đầu tư ẩn chứa quá nhiều rủi ro.
Dẫu vậy, câu trả lời cho các nhà đầu tư là hãy đặt cược vào sự cải tiến thay vì hi vọng rằng các nhà hoạch định chính sách sẽ không lầm đường lạc lái. Dù các NHTW đưa ra chính sách như thế nào đi chăng nữa, các công ty vẫn phải đầu tư và đổi mới.
Bình Trần