Tổng cục Hải quan Trung Quốc đã công bố tình hình xuất nhập khẩu mười tháng đầu năm nay. Theo thống kê của Hải quan Trung Quốc, từ tháng 1 đến tháng 10, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của nước này đạt 3.161,57 tỷ USD, tăng 6,3% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong đó, xuất khẩu đạt 1.670,9 tỷ USD, tăng 7,8%; nhập khẩu đạt 1.490,67 tỷ USD, tăng 4,6%; xuất siêu 180,23 tỷ USD.
Số liệu thống kê của Hải quan Trung Quốc cho thấy tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tháng 10 của nước này đạt 319,15 tỷ USD, tăng 7,3%. Trong đó, xuất khẩu 175,57 tỷ USD, tăng 11,6%; nhập khẩu 143,58 tỷ USD, tăng 2,4%, xuất siêu 31,99 tỷ USD. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tháng 10 tăng 1% so với tháng 9, trong đó xuất khẩu tăng 1,7%, nhập khẩu tương đương với tháng 9.
Mười tháng đầu năm, kim ngạch xuất nhập khẩu thương mại thông thường của Trung Quốc đạt 1.655,63 tỷ USD, tăng 5,5%. Trong đó xuất khẩu đạt 811,4 tỷ USD, tăng 8,5%; nhập khẩu đạt 844,23 tỷ USD, tăng 2,7%. Kim ngạch mậu dịch thông thường nhập siêu 32,83 tỷ USD, thu hẹp còn 55,8%. Cùng kỳ, gia công xuất nhập khẩu đạt 1.098,53 tỷ USD, tăng 2,5%. Trong đó, xuất khẩu đạt 705,23 tỷ USD, tăng 3%; nhập khẩu đạt 393,3 tỷ USD, tăng 1,6%. Loại hình gia công xuất siêu 311,93 tỷ USD, tăng 4,8%.
Quan hệ thương mại song phương của Trung Quốc với một số nước, khu vực chính trong 10 tháng đầu năm như sau: Tổng kim ngạch thương mại Trung- Âu đạt 452,83 tỷ USD, giảm 3%, tổng kim ngạch thương mại Trung- Mỹ đạt 396,09 tỷ USD, tăng 9,1%. Tổng kim ngạch thương mại giữa Trung Quốc với ASEAN đạt 323,89 tỷ USD, tăng 9,4%; với Nhật Bản đạt 275,47 tỷ USD, giảm 2,1%. Cũng trong 10 tháng đầu năm, kim ngạch thương mại của nước này với Nga và Brazil lần lượt đạt 73,59 và 72,04 tỷ USD, tương ứng tăng 13,4% và 3,5%.
Số liệu thống kê của Hải quan nước này cho thấy, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của 7 tỉnh thành gồm: Quảng Đông, Giang Tô,… chiếm 80% kim ngạch của cả nước. Mười tháng đầu năm, kim ngạch xuất nhập khẩu của Quảng Đông đạt 798,45 tỷ USD, tăng 6,9%; kim ngạch xuất nhập khẩu của Giang Tô, Thượng Hải và Bắc Kinh tương ứng đạt 449,24 tỷ, 362,9 tỷ và 335,96 tỷ USD, tương ứng tăng 1,2%; 0,5% và 5,8%. Ngoài ra, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Chiết Giang, Sơn Đông và Phúc Kiến tương ứng là 259,03 tỷ; 200,34 tỷ và 126,82 tỷ USD, tương ứng tăng 1,7%; 3,6% và 10,2%. Kim ngạch xuất nhập khẩu của 7 tỉnh/ thành đã nêu chiếm 80,1% tổng kim ngạch của cả nước. Về xuất khẩu, 10 tháng đầu năm: Quảng Đông xuất khẩu 466,36 tỷ USD, tăng 7,5%; Giang Tô và Chiết Giang xuất khẩu lần lượt đạt 268,04 tỷ và 186,34 tỷ USD, tương ứng tăng 4,1% và 4,4%; Thượng Hải xuất khẩu 171,28 tỷ USD, giảm 1%; Sơn Đông, Phúc Kiến và Bắc Kinh xuất khẩu lần lượt 105,46 tỷ, 79,73 tỷ và 49 tỷ USD, tương ứng tăng 1,4%; 7,1% và 1,9%. Ngoài ra, còn một số tỉnh khác thuộc khu vực miền Trung, miền Tây xuất khẩu tăng trưởng khá nhanh như: Trùng Khánh, An Huy, Hà Nam, Tứ Xuyên và Giang Tây,… với tốc độ xuất khẩu tăng tương ứng là 1,4 lần, 67,9%, 54,1%, 40,2% và 32,7%.
Trong số các mặt hàng xuất khẩu thì xuất khẩu hàng điện, cơ khí và những mặt hàng sử dụng nhiều lao động truyền thống tăng ổn định. Theo thống kê, 10 tháng đầu năm, xuất khẩu mặt hàng điện và cơ khí của Trung Quốc là 957,38 tỷ USD, tăng 8,5%, cao hơn mức tăng của kim ngạch xuất khẩu chung là 0,7%, chiếm 57,2% tổng kim ngạch xuất khẩu. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu hàng điện và điện tử đạt 389,41 tỷ USD, tăng 7,9%; thiết bị cơ khí đạt 306,77 tỷ USD, tăng 5,9%. Cùng kỳ, kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng: quần áo đạt 130,76 tỷ USD, tăng 2,6%; dệt may đạt 79,1 tỷ USD, tăng 1%; giày da đạt 38,24 tỷ USD, tăng 10,6%; nội thất đạt 39,38 tỷ USD, tăng 31,9%; đồ nhựa đạt 25,94 tỷ USD, tăng 39,7%; túi xách, va ly đạt 20,3 tỷ USD, tăng 5%; đồ chơi đạt 9,78 tỷ USD, tăng 7,3%. Kim ngạch xuất khẩu của bẩy nhóm hàng sử dụng nhiều lao động kể trên chiếm 20,6% trong tổng kim ngạch xuất khẩu.
Về nhập khẩu 10 tháng đầu năm, Trung Quốc nhập khẩu: 0,61 tỷ tấn quặng sắt, tăng 8,9%, giá nhập khẩu trung bình 132,3 USD/tấn (giảm 20,8%); 0,22 tỷ tấn than, giá nhập khẩu trung bình 103,3 USD/ tấn (giảm 2,9%); 48,34 triệu tấn đậu tương, tăng 16,6%, giá nhập khẩu trung bình là 586,2 USD/tấn (tăng 2,1%); 19,61 triệu tấn nhựa sơ chế, tăng 3,8%, giá nhập khẩu trung bình 1954,9 USD/tấn (giảm 5,9%); 11,55 triệu tấn thép, giảm 12,2%, giá nhập khẩu trung bình là 1314,4 USD/tấn (giảm 4,9%); 3,941 triệu tấn đồng và đồng chưa gia công, tăng 26,6%, giá nhập khẩu trung bình là 8307,3 USD/tấn (giảm 11,1%); 1,032 triệu tấn nhôm và nhôm chưa gia công, tăng 41,8%, giá nhập khẩu trung bình là 3973,1 USD/tấn (giảm 20,7%). Ngoài ra, kim ngạch nhập khẩu mặt hàng điện và cơ khí đạt 639,35 tỷ USD, tăng 3,1%, trong đó có 968 nghìn chiếc ô tô, tăng 18%.
(HQ)