VINANET- Theo số liệu thống kê, trong tháng 7 năm 2012, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Hoa Kỳ đạt trị giá hơn 1,85 tỷ USD, tăng 21,3% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 7 tháng đầu năm 2012, kim ngạch xuất khẩu đạt 11,13 tỷ USD, tăng 19,4% so với cùng kỳ năm trước. Với kết quả này Hoa Kỳ tiếp tục là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam.

Nhìn chung, xét về cơ cấu hàng hóa xuất khẩu sang thị trường Hoa kỳ trong 7 tháng đầu năm 2012 không có sự thay đổi đáng kể nào, dẫn đầu vẫn là nhóm hàng công nghiệp và chế biến; tiếp đến là nhóm hàng nông lâm, thủy sản và cuối cùng là nhóm hàng khoáng sản, năng lượng.

Trong nhóm hàng công nghiệp chế biến, với kim ngạch xuất khẩu đạt 4.215.606.051 USD, chiếm 37,8% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước sang thị trường Hoa Kỳ, mặt hàng dệt may tiếp tục là mặt hàng được xuất khẩu nhiều nhất, tăng 37,8% so với cùng kỳ.

Ba mặt hàng có giá trị xuất khẩu lớn tiếp theo đều thuộc các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của nước ta và đều có sự tăng trưởng so với cùng kỳ năm trước. Trong đó mặt hàng giày dép với trị giá xuất khẩu đạt 1.238.437.938 USD, tăng 18,3%; tiếp đến là mặt hàng gỗ và sản phẩm gỗ 981.011.650 USD, tăng 31,5%; mặt hàng thủy sản với trị giá xuất khẩu đạt 671.063.385 USD, chiếm 6% tổng kim ngạch xuất khẩu và tăng 13,4% so với cùng kỳ năm trước.

Số liệu xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang Hoa Kỳ tháng 7 và 7 tháng đầu năm 2012

Mặt hàng

ĐVT

Tháng 7/2012

7 Tháng/2012

 

 

  Lượng

Trị giá (USD)

 Lượng

Trị giá (USD)

Tổng

 

 

1.858.495.763

 

11.135.565.768

Hàng dệt. may

USD

 

729.804.890

 

4.215.606.051

Giày dép các loại

USD

 

177.781.411

 

1.238.437.938

Gỗ và sản phẩm gỗ

USD

 

158.005.726

 

981.011.650

Hàng thủy sản

USD

 

115.176.731

 

671.063.385

Máy móc. thiết bị. dụng cụ phụ tùng khác

USD

 

83.723.000

 

568.974.420

Máy vi tính. sản phẩm điện tử và linh kiện

 USD

 

72.502.786

 

489.438.734

Phương tiện vận tải và phụ tùng

USD

 

90.502.626

 

399.861.473

Túi xách. ví.vali. mũ và ô dù

USD

 

53.216.174

 

355.044.420

Cà phê

Tấn

14.988

34.620.883

133.007

307.368.446

Sản phẩm từ sắt thép

USD

 

44.380.620

 

250.428.226

Hạt điều

Tấn

4.944

34.763.466

33.291

227.911.649

Dầu thô

 Tấn

78.329

60.000.000

190.728

169.432.678

Sản phẩm từ chất dẻo

USD

 

13.868.992

 

94.858.353

Điện thoại các loại và linh kiện

USD

 

10.797.250

 

91.395.408

Hạt tiêu

Tấn

961

7.957.764

9.641

71.035.578

Giấy và các sản phẩm từ giấy

USD

 

4.933.634

 

60.880.408

Đá quý. kim loại quý và sản phẩm

USD

 

9.031.752

 

50.704.587

Kim loại thường khác và sản phẩm

USD

 

6.475.434

 

43.090.131

Dây điện và dây cáp điện

 USD

 

11.209.870

 

41.040.335

Cao su

Tấn

1.892

4.489.558

11.412

33.220.292

Sản phẩm từ cao su

 USD

 

4.471.646

 

28.375.672

Thủy tinh và các sản phẩm từ thủy tinh

USD

 

4.120.944

 

26.416.127

Sản phẩm gốm. sứ

USD

 

1.829.060

 

22.570.411

Sản phẩm mây. tre. cói và thảm

 USD

 

2.803.340

 

22.269.000

Hàng rau quả

 USD

 

3.177.595

 

21.191.788

Gạo

Tấn

38.583

13.448.899

49.985

20.556.946

Xơ. sợi dệt các loại

Tấn

1.598

2.474.393

11.174

18.654.990

Xăng dầu các loại

Tấn

5.112

4.855.962

16.601

15.909.283

Bánh kẹo và các sản phẩm từ ngũ cốc

USD

 

2.526.537

 

15.804.007

Sản phẩm hóa chất

USD

 

1.388.463

 

10.974.322

Sắt thép các loại

Tấn

1.311

2.081.363

5.407

9.451.711

Hóa chất

USD

 

1.131.667

 

7.258.455

Chè

Tấn

828

795.233

4.015

4.394.425

Máy ảnh. máy quay phim và linh kiện

USD

 

 

 

953.597

Hành trang cho các doanh nghiệp xuất khẩu vào Hoa Kỳ

Hoa Kỳ hiện là một trong những thị trường hàng đầu về nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam trong nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên, Hoa Kỳ cũng đặt ra nhiều quy định mới đối với các mặt hàng thực phẩm, dược phẩm, đồ uống… khi xuất khẩu vào thị trường này. Việc đáp ứng đầy đủ những tiêu chuẩn này không chỉ giúp doanh nghiệp tiết kiệm nhiều chi phí, hạn chế rủi ro mà còn giữ gìn thương hiệu cho chính bản thân doanh nghiệp, góp phần đẩy mạnh hàng xuất khẩu Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ.

Hiện có hơn 160 quốc gia xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ với số lượng lớn (15-20% sản phẩm thực phẩm tiêu thụ tại Mỹ có nguồn gốc từ các quốc gia khác). Do đó, việc kiểm tra tại cảng nhập không thể xử lý hết số lương thực thực phẩm nhập khẩu ngày càng tăng, thực tế FDA chỉ kiểm soát khoảng 2% trong tổng số các lô hàng nhập khẩu. Đây là một trong những lý do khiến thị trường nhập khẩu này ngày càng áp dụng nhiều quy định khắt khe về ATVSTP và các luật sửa đổi bổ sung đối với hàng nhập khẩu.

Theo quy định của FDA, các doanh nghiệp sản xuất, chế biến, đóng gói, lưu giữ đồ uống, thực phẩm hoặc các thành phần của thực phẩm phải đăng ký với FDA trước khi muốn xuất khẩu vào thị trường này. Với quy định trên thì các doanh nghiệp Việt Nam phải tự đăng ký hoặc nhờ đối tác nhập khẩu hàng hiện hữu của doanh nghiệp tại Hoa Kỳ làm người đại diện để đăng ký với FDA. Vì vậy, doanh nghiệp cần chọn người đại diện có uy tín, có mối liên lạc thường xuyên, hiểu các quy định và biết cách làm việc với FDA. Tuy nhiên, theo các quy định của Luật hiện đại hóa an toàn thực phẩm của FDA (FSMA) được sửa đổi bổ sung ngày 4/1/2011 , kể từ năm 2012 mỗi doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này buộc phải chỉ định một đại diện tại Mỹ để FDA liên lạc theo Luật chống khủng bố sinh học năm 2002. Các doanh nghiệp sẽ phải đăng kí lại với FDA 2 năm/lần vào quý 4 của các năm chẵn . Ngày 31/12/2012 là thời gian cuối cùng cho các doanh nghiệp đăng ký và tái đăng ký với FDA. Việc tự nguyện cung cấp thông tin cho FDA giúp các doanh nghiệp nhận được phản hồi sớm từ cơ quan này.

FSMA buộc các nhà nhập khẩu có trách nhiệm hơn đối với chất lượng sản phẩm của các nhà sản xuất nước ngoài. Chẳng hạn, đối với tiêu chuẩn HACCP, FDA không yêu cầu bắt buộc nhưng từ tháng 7/2012, các sản phẩm hàng hóa xuất vào Hoa Kỳ sẽ phải đáp ứng quy trình sản xuất đạt chuẩn HACCP về kiểm soát phòng ngừa. Tiêu chuẩn này hiện đã áp dụng trên hai sản phẩm là nước giải khát và hải sản. Đến tháng 3/2013, Hoa Kỳ sẽ đưa vào áp dụng thêm quy định Tiêu chuẩn an toàn sản xuất bắt buộc (CGMP).

Nguồn: Vinanet