Thực hiện 6 tháng đầu năm 2012, Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Indonesia 1,131 tỷ USD, tăng 20,11% so cùng kỳ năm 2011. Việt Nam nhập khẩu từ thị trường này tổng trị giá 1,071 tỷ USD, giảm 1,73% so cùng kỳ năm 2011.
(Tổng kim ngạch thương mại song phương trong 6 tháng đầu năm 2012 đạt 2,202 tỷ USD, trong đóViệt Nam xuất siêu vào thị trường này 60 triệu USD.
Các mặt hàng xuất khẩu tăng về trị giá gồm:
Cà phê xuất khẩu đạt 78,196 triệu USD tăng gấp 7,62 lần; Quặng và các khoáng sản khác 0,607triệu USD tăng gấp 3,86 lần; Điện thoại các loại và linh kiện 134,703 triệu USD tăng 154,95%; Hóa chất 1,766 triệu USD tăng 153%; Dây điện và dây cáp điện 5,793 triệu USD tăng 151,38%; Sản phẩm từ sắt thép 9,599 triệu USD tăng 129,25%; Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện 14,079 triệu USD tăng 123,47%; Giày dép các loại 9,343 triệu USD tăng 105,37%; Than đá 5,867 triệu USD tăng 102,80%; Chè 7,112 triệu USD tăng 86,96%; Giấy và các sản phẩm từ giấy 6,804 triệu USD tăng 86,56%; Sản phẩm hóa chất 19,692 triệu USD tăng 58,98%; Sắt thép các loại 148,793 triệu USD tăng 47,81%; Phương tiện vận tải và phụ tùng 36,818 triệu USD tăng 28,12%; Sản phẩm từ cao su 3,810 triệu USD tăng 34,45%; Sản phẩm chất dẻo 39,945 triệu USD tăng 23,99%; Máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác 34,144 triệu USD tăng 21,06%; Xơ sợi dệt các loại 35,475 triệu USD tăng 15,84%.
Các mặt hàng xuất khẩu giảm về trị giá gồm:
Hạt tiêu 0,747 triệu USD giảm 81,35%;Xăng dầu các loại 0,851 triệu USD giảm 62,75%; Gạo 158,412 triệu USD giảm 55,28%; Hàng thủy sản 4,936 triệu USD giảm 26,88%; Sản phẩm gốm, sứ 6,298 triệu USD giảm 2,56%; Hàng rau quả 19,090 triệu USD giảm 29,81%; Hàng dệt may 39,121 triệu USD giảm 9,11%; Cao su 0,73 triệu USD giảm 66,62%.
Các mặt hàng nhập khẩu tăng về trị giá gồm:
Hàng thủy sản 29,545 triệu USD tăng 110,09%; Bánh kẹo và các sản phẩm từ ngũ cốc 17,943 triệu USD tăng 82,72%; Linh kiện, phụ tùng xe máy 47,325 triệu USD tăng 52,83%; Sản phẩm từ kim loại thường khác 53,955 triệu USD tăng 99,92%; Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện 57,832 triệu USD tăng 56,41%; Dây điện và dây cáp điện 4,296 triệu USD tăng 184,50%; Vải các loại 32,633 triệu USD tăng 46,12%; Gỗ và sản phẩm gỗ 13,573 triệu USD tăng 36,99%; Nguyên phụ liệu thuốc lá 5,146 triệu USD tăng 15,72%; Chất dẻo nguyên liệu 28,388 triệu USD tăng 16,96%; Nguyên phụ liệu dệt, may, da, giày 19,741 triệu USD tăng 8,23%; Sản phẩm từ chất dẻo 23,263 triệu USD tăng 12,64%; Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác 65,592 triệu USD tăng 20,54%; Sản phẩm khác từ dầu mỏ 1,1 triệu USD giảm 13,25%; Dược phẩm 8,504 triệu USD tăng 1,33%; Giấy các loại 118,251 triệu USD tăng 0,62%; Hóa chất 53,137 triệu USD tăng 0,59%.
Các mặt hàng nhập khẩu giảm về trị giá gồm:
Phân bón các loại 0,547 triệu USD giảm 95,19%.Bông các loại 0,315 triệu USD giảm 70,63%; Kim loại thường khác 16,455triệu USD giảm 68,85%; Cao su 0,751 triệu USD giảm 65,66%; Hàng rau quả 0,084 triệu USD giảm 66,21%; Xơ, sợi dệt các loại 26,313 triệu USD giảm 39,47%; Ô tô nguyên chiếc các loại 4,322 triệu USD giảm 38,14%; Hàng điện gia dụng và linh kiện 9,854 triệu USD giảm 27,15%; Linh kiện, phụ tùng ô tô 29,833 triệu USD giảm 26,33%; Sản phẩm từ sắt thép 8,456 triệu USD giảm 22,74%; Sản phẩm hóa chất 22,796 triệu USD giảm 22,23%; Sản phẩm từ giấy 4,173 triệu USD giảm 21,93%; Sản phẩm từ cao su 2,242 triệu USD giảm 14,88%; Thức ăn gia súc và nguyên liệu 26,334 triệu USD giảm 11,22%; Thuốc trừ sâu và nguyên liệu 7,719 triệu USD giảm 5,40%; Sắt thép các loại 29,790 triệu USD giảm 4,28%; Dầu mỡ động thực vật 106,347 triệu USD giảm 1,16%.