Khối Nghiên cứu Kinh tế của Ngân hàng HSBC (HSBC Global Research) vừa công bố bản báo cáo Kinh tế vĩ mô - Triển vọng kinh tế vĩ mô Việt Nam số tháng 12/2014 với chủ đề: "Sức cạnh tranh của tỷ giá, giá dầu và xuất khẩu".

Báo cáo của HSBC cho thấy, Việt Nam đang dần có thêm thị phần trên thị trường xuất khẩu quốc tế và cả về lợi thế so sánh hiện hữu (RCA). Chỉ số RCA sử dụng các dòng chảy thương mại của một quốc gia để đo lường lợi thế hoặc yếu thế cạnh tranh trong một ngành cụ thể của một quốc gia.

Cơ hội tham gia thị trường nước ngoài

Bản báo cáo đánh giá, chậm mà chắc, Việt Nam đang giành được thị phần trên thế giới. Hàng hóa của Việt Nam chiếm 0,7% lượng xuất khẩu toàn cầu trong năm 2013, tăng 0,4% kể từ năm 2007. Trong ngành sản xuất cần nhiều nhân công, lĩnh vực giày dép và may mặc đang phát triển với tốc độ nhanh hơn. Tất nhiên, mục tiêu xuất khẩu là nhắm đến đến các nền kinh tế thịnh vượng, đặc biệt là Mỹ để cải thiện mức sống. Ví dụ trong năm 2013, Việt Nam là nhà cung ứng hàng hóa lớn thứ 20 của Mỹ, với tổng giá trị 25 tỷ đô la Mỹ. Trong năm nay, xuất khẩu vào Mỹ của Việt Nam tăng 23,5% từ tháng 1 đến tháng 9.

Đối với Việt Nam, phần thưởng lớn nhất của Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) là thỏa thuận tự do thương mại (FTA) với nền kinh tế lớn nhất của thế giới, cho phép sự hội nhập tốt hơn của hàng hóa Việt Nam. Cho dù là thỏa thuận tự do thương mại với khu vực Eurozone hay với Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP), Việt Nam đang nỗ lực để cải thiện sự kết nối với các khu vực từ đó hàng hóa của mình có nhiều cơ hội thâm nhập thị trường nước ngoài hơn.

Chỉ số PMI ngành sản xuất của HSBC trong tháng 11 cho thấy các đơn hàng xuất khẩu mới và sản lượng đang tăng. Nhu cầu trên thế giới dè dặt cũng khiến các công ty tại các nền kinh tế phát triển tìm cách cắt giảm chi phí, đẩy các doanh nghiệp vừa và nhỏ tìm những phương án thay thế với giá rẻ hơn. Nhờ vào nguồn vốn FDI giải ngân ổn định và chi phí nhân công thấp, chỉ số phụ về việc làm trong khảo sát PMI tăng khá ổn định, là dấu hiệu tích cực cho một quốc gia có lượng nhân công dồi dào được hấp thu hiệu quả vào nguồn lực lao động. Phân tích của HSBC về sức cạnh tranh (về mặt thương mại, tỷ giá hiệu quả, đơn giá nhân công, và vợi thế so sánh được) hỗ trợ nhận định này. Tuy nhiên, ngoài lợi thế về chi phí, Việt Nam cần phải cải thiện cơ sở hạ tầng thương mại (như chi phí hậu cần, đường sá và hàng không) và những kỹ năng chuyên môn để gia tăng chuỗi giá trị.

Trong ngắn hạn, nhu cầu nhập khẩu có thể tăng (như đã từng tăng trong tháng 11), tạo áp lực lên đồng Việt Nam. Nhưng ngoài điểm này, tiền đồng có thể đạt sự ổn định do thặng dư tài khoản vãng lai. Giá dầu giảm mạnh sẽ làm kéo dài thâm hụt tài chính của Việt Nam nhưng sẽ giúp nhà sản xuất cắt giảm chi phí và chuyển phần tiết kiệm được sang cho khách hàng. HSBC kỳ vọng cầu nội địa sẽ tăng dần khi nền kinh tế cải thiện và sức mua tăng lên.

Chỉ số PMI HSBC tăng từ 51 trong tháng 10 lên 52,1. Chỉ số chỉ báo – đơn hàng mới trừ đi tồn kho – cho thấy sản lượng dường như tăng trở lại trong những tháng tới. Giá dầu và giá cả hàng hóa khác giảm đã giúp các nhà sản xuất tiết kiệm được chi phí cho người tiêu dùng, giúp đẩy mạnh bán hàng. Giá cả cạnh tranh và sản phẩm chất lượng giúp đảm bảo công việc mới của thị trường nội địa lẫn xuất khẩu.

Các đơn hàng từ nước ngoài đóng vai trò quan trọng trong việc đẩy chỉ số PMI tăng. Các chuyên gia HSBC tin rằng xu hướng tăng này sẽ giữ ổn định qua năm sau. Nhu cầu về nhân công tăng và đơn hàng xuất khẩu mới ổn định là một số trong những lý do của sự lạc quan này. Bên cạnh đó, hàng tồn kho, mặc dù tăng, nhưng vẫn khá thấp, khiến cho các nhà sản xuất tăng số lượng hàng mua và tăng sản lượng để bắt kịp nhu cầu.

Trong tháng 11, nhập khẩu tăng 25,8% trong khi xuất khẩu tăng 17,8% so với cùng kỳ năm ngoái. Năm nay, tốc độ tăng này còn nhanh hơn (khi so sánh với năm trước) do tính cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam tăng. Nhu cầu nhập khẩu tăng mạnh cùng với hoạt động thu lợi nhuận của các nhà đầu tư nước ngoài đã làm cho tiền đồng tăng đạt mức trần cho phép của Ngân hàng Nhà Nước (NHNN).

Kể từ năm 2011, giao dịch thị trường của đồng Việt Nam nằm giữa mức sàn và mức trần của NHNN, với một số trường hợp ngoại lệ giữa năm 2013 và giữa 2014. Điều này trái ngược với những gì xảy ra trong quá khứ (2009-2011), khi tỷ giá VNDUNOFF (nhu cầu thực tế cho tỉ giá VND/USD được Reuters ghi nhận) tăng vượt ngưỡng giao dịch được phép của tiền đồng. Thâm hụt thương mại tăng là một lý do dẫn đến thiếu hụt đô la Mỹ. Sau đó, cán cân thương mại hàng tháng ổn định với một số điểm đặc biệt thay đổi theo mùa.

Do nhu cầu cao vào quý 4 hàng năm cũng như sản xuất tăng tốc vào thời điểm trước Tết Nguyên Đán (người Việt Nam nghỉ chín ngày để có nhiều thời gian với gia đình và bạn bè), cả hai hoạt động xuất và nhập khẩu đều có xu hướng tăng mạnh. Năm nay cũng không là ngoại lệ. Chỉ số PMI chưa điều chỉnh theo mùa vụ tăng đạt 55,1 (điều chỉnh theo mùa vụ đạt 52,1) từ mức 52,0 vào tháng 10.

Do đặc tính tăng theo mùa vụ của nhu cầu, NHNN có sự lựa chọn hoặc cho phép thị trường điều chỉnh tỷ giá hoặc bơm thanh khoản để giữ tỷ giá trong biên độ. Thống đốc Nguyễn Văn Bình trước đây đã công bố rằng đồng Việt Nam có thể giảm giá 2% trong năm 2014. Nhưng trước những biến động trong những tuần gần đây, ông cho rằng tỷ giá tham chiếu sẽ không thay đổi đến cuối năm. Điều này về cơ bản sẽ giới hạn lựa chọn của NHNN hoặc bơm đô la Mỹ vào thị trường hoặc để mặc cho thị trường ít thanh khoản hơn. HSBC tin rằng ngoài các thời điểm căng thẳng theo chu kỳ, nhiều khả năng tiền đồng sẽ ổn định nhờ các dòng vốn FDI ổn định đổ vào Việt Nam và tài khoản thương mại đạt thặng dư 2 triệu đô la Mỹ tính từ đầu năm đến nay.

Việt Nam đang có tiềm lực cạnh tranh

Tỷ giá thương mại (TOT), một ước lượng về số lượng của các loại hàng hoá mà một nền kinh tế có thể mua trên mỗi đơn vị hàng hoá xuất khẩu, đã cải thiện trong những năm gần đây. Quả thật, tỷ giá thực hiệu dụng (REER), một ước lượng về giá trị trung bình có trọng số của tiền đồng theo một chỉ số hoặc một rổ các ngoại tệ lớn được điều chỉnh theo ảnh hưởng của lạm phát, đã thuận lợi trong những năm gần đây dù tỷ giá ngoại tệ danh nghĩa hiệu dụng (NEER) ổn định, nhưng xét về mức độ thì vẫn thấp hơn vị trí đã đạt được vào giữa những năm 1990.

Về dầu thì như thế nào? Các chuyên gia HSBC đã phân tích chủ đề này trong báo cáo Triển vọng kinh tế Việt Nam tháng trước ra vào ngày 3/11 nhưng kể từ lúc đó giá dầu Brent đã giảm xuống còn 70,15 đô la Mỹ/một thùng vào ngày 28/11, sau khi OPEC quyết định không giảm sản lượng. Xét về khía cạnh thương mại thuần, đó là một bước phát triển tích cực.

Nhưng các nhà sản xuất Việt Nam và người tiêu dùng sẽ được lợi từ việc giá dầu giảm. Khảo sát PMI mới nhất của HSBC cũng cho thấy các nhà sản xuất được lợi từ việc giá cả đầu vào giảm mạnh, cho phép họ chuyển phần tiết kiệm được qua cho khách hàng, và điều này dẫn đến giá cả đầu ra giảm. Chỉ số CPI toàn phần tại Việt Nam giảm còn 2,6% trong tháng 11 so cùng kỳ năm trước do chi phí vận chuyển giảm thấp hơn và chúng tôi tin chi phí vận chuyển sẽ còn giảm nữa. Có nhiều khả năng người tiêu dùng sẽ được lợi từ việc tăng thu nhập sau thuế cũng như từ sự vực dậy của ngành sản xuất, để họ có thể dần mở rộng chi tiêu. HSBC dự báo tiêu thụ cá nhân tại Việt Nam sẽ tăng lên mức 5,6% trong năm 2015 từ mức 5,4% của năm 2014.

Nhà nước tăng chỉ tiêu GDP lên 6,2% cho năm 2015, các chuyên gia HSBC tin nền kinh tế sẽ tăng tốc trong năm sau dù chỉ là tăng nhẹ. Về mặt tài chính, HSBC dự đoán doanh thu từ dầu sẽ giảm do giá dầu thô Brent giảm. Nhưng điều này sẽ không tác động đến các dự báo của HSBC về thâm hụt của Việt Nam, như đã nói trong các báo cáo rằng từ năm nay đến năm sau, thâm hụt xảy ra do chu kỳ tự nhiên của cán cân tài chính. Thêm vào đó, Bộ Tài chính (MOF) thường bảo thủ trong việc ước tính giá dầu thô Brent (75-85 đô la Mỹ/thùng) do đó làm giảm tác động tâm lý tiêu cực từ việc giá dầu thể giới giảm mạnh.

Các chuyên gia HSBC chia sẻ: Chúng tôi có quá tích cực về triển vọng của Việt Nam? Chúng tôi không nghĩ vậy vì hai nguyên nhân: xuất khẩu đang tăng trưởng nhanh và ổn định từ các mức thấp hơn trước đó; và sự phát triển thiên về xuất khẩu phù hợp với nguồn nhân công Việt Nam, tài nguyên và vị trí địa lý cạnh tranh thuận lợi. Áp lực tiền công tăng tại Trung Quốc cũng như áp lực cắt giảm chi phí đang khiến các doanh nghiệp hàng điện tử đa dạng hoá sang phía Bắc của Việt Nam, là nơi gần với nguồn cung nguyên vật liệu đầu vào từ Trung Quốc và gần một trong các sân bay chính, cũng như các cảng của Việt Nam. Giá nhân công trung bình cho một đơn vị sản lượng tại các thành phố châu Á có lượng nhân công lớn. Hãy chú ý đơn giá công lao động tăng mạnh tại nhiều quốc gia. Đơn giá công lao động tại Việt Nam (ULCs) vẫn còn thấp. Và hãy chú ý đây chỉ là ước tính về tính cạnh tranh của giá, không phải là tính toán toàn diện về tính cạnh tranh.

Việt Nam đang dần có thêm thị phần trên thị trường xuất khẩu quốc tế và cả về lợi thế so sánh hiện hữu (RCA). Chỉ số RCA sử dụng các dòng chảy thương mại của một quốc gia để đo lường lợi thế hoặc yếu thế cạnh tranh trong một ngành cụ thể của một quốc gia. Chỉ số trên 1 chỉ báo rằng phần xuất khẩu của quốc gia đó trong ngành lớn hơn phần xuất khẩu của thế giới trong cùng ngành đó – một bằng chứng của tính cạnh tranh. Chúng tôi tin Việt Nam đang áp dụng một chính sách đúng đắn khi sử dụng giá nhân công và lợi thế tài nguyên để thu hút ngành sản xuất sử dụng nhiều vốn. Chỉ cần Việt Nam tiếp tục cải thiện tính hiệu quả của nguồn lao động, việc phân bổ vốn và tài nguyên để bù đắp cho tính cạnh tranh về giá tất yếu sẽ bị ăn mòn trong tương lai, triển vọng của nền kinh tế sẽ sáng sủa.

Trong bảng điểm toàn diện đánh giá các quốc gia trong khu vực châu Á của Ngân hàng thế giới (World Bank), điểm của Việt Nam vẫn khá thấp. Việt Nam cần cải thiện điều này để hệ thống tài chính hoạt động phù hợp và tăng tính hiệu quả của thị trường để tăng tốc độ tự hồi phục của thị trường. Nếu không có một khung pháp lý mạnh (và hành pháp) cho thủ tục phá sản thì quy trình thu hồi nợ sẽ kéo dài tại Việt Nam, làm tăng thất thoát tài sản và tính hiệu quả của nền kinh tế.

Trong lúc thử thách còn lớn, theo HSBC, chướng ngại lớn nhất cho sự thịnh vượng trong tương lai vẫn là việc thiếu các nỗ lực phối hợp để các doanh nghiệp nội kết nối với chuỗi giá trị cung ứng toàn cầu dễ dàng và nhanh hơn. Tuy nhiên, điều này là một vấn đề nghiêng về phía trung hạn và là một thử thách vào lúc khác. Trong lúc này, các chuyên gia của HSBC kỳ vọng nền kinh tế dần tăng thêm sức mạnh, dù sẽ vẫn tồn tại các khó khăn.

Nguồn: dddn.com.vn

Nguồn: Vinanet