Đông Nam Á là một khu vực có lịch sử phát triển lâu dài và trong quá trình phát triển của mình đã đóng góp đáng kể cho sự phát triển của nền văn minh nhân loại. Các quốc gia trong khu vực là những đất nước có sự tương đồng trên nhiều lĩnh vực văn hoá - xã hội cũng như trình độ phát triển kinh tế. Chính vì vậy, nhu cầu hợp tác, liên kết các quốc gia trong khu vực luôn được đặt ra ở các thời điểm lịch sử. đặc biệt trong bối cảnh hiện nay, thế giới đang có nhiều biến đổi, xu thế toàn cầu hoá và đa cực hoá thế giới đang diễn ra nhanh chóng, nhu cầu về sự liên kết giữa các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á nói chung và giữa từng quốc gia với nhau nói riêng đang trở nên rất cần thiết cho sự phát triển của mỗi quốc gia.

Việt Nam đang trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nhận thấy rõ lợi ích to lớn trong quan hệ buôn bán với các nước trong khu vực, đặc biệt là với Thái Lan. Trong thời gian qua, kể từ năm 1992, quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt nam với Thái Lan đã được cải thiên rõ rệt. Xét về kim ngạch thương mại, Thái Lan đứng thứ 2 , và đứng thứ 3 về đầu tư trong số các nước ASEAN làm ăn với Việt nam. Cùng với sự phát triển tốt đẹp về quan hệ chính trị giữa Việt Nam và Thái Lan, quan hệ kinh tế thương mại song phương đã đạt được những thành tựu đáng kể. Hình thức hợp tác song phương theo phương thức chuyển đối đầu sang đối thoại, chuyển cạng tranh sang hợp tác…đã cho thấy quan hệ kinh tế thương mại giữa hai nước đã bước lên tầm cao mới.

Hiện nay có khoảng 500 văn phòng đại diện của công ty Thái Lan tại Việt Nam. Các văn phòng này đã đóng góp tốt vào việc giải quyết việc làm và tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Có khoảng 12 nghìn người đang làm việc cho các dự án của Thái Lan tại Việt Nam. Trong số các dự án đó có 67% là vốn từ các công ty nước ngoài đầu tư tại Thái Lan, chiếm 56% tổng vốn đầu tư , 27,7% là vốn của các công ty liên doanh, chiếm 43% tổng vốn đầu tư từ Thái Lan vào Việt Nam.

 Trong khuôn khổ đa phương, Việt Nam – Thái Lan luôn thể hiện tốt vai trò đóng góp của mình. Có 95% hàng hóa xuất nhập khẩu từ hai nước có thuế suất 0%. Điều này sẽ tạo thuận lợi cho Thương mại đầu tư giữa hai nước ngày càng phát triển.

Theo Bộ Thương mại Hoàng gia Thái Lan hợp tác kinh tế giữa 2 quốc gia đang tăng. Kim ngạch thương mại song phương được nâng lên đáng kể trong năm 2011 với tỉ lệ 25%; đạt 9 tỉ đôla Mỹ, trong đó, xuất khẩu Việt Nam, nằm trong danh sách 10 quốc gia hàng đầu đầu tư vào Việt Nam.

Số liệu từ TCHQ Việt Nam, hai tháng đầu năm 2012 Việt Nam đã xuất khẩu 335,6 triệu USD sang thị trường Thái Lan, tăng 53,04% so với cùng kỳ năm trước. Tính riêng tháng 2/2012, xuất khẩu sang thị trường này tăng 109,96% so với tháng 2/2011 và tăng 12,76% so với tháng cuối năm 2011.

Việt Nam xuất khẩu các mặt hàng sang Thái như điện thoại các loại và linh kiện, máy vi tính sản phẩm điện tử, máy móc thiết bị, sắt thép, phương tiện vận tải… trong đó mặt hàng điện thoại và linh kiện đạt kim ngạch cao nhất, 52,3 triệu USD chiếm 15,5% tỷ trọng. Kế đến là máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện đạt 38,8 triệu USD, tăng 75,62% so với cùng kỳ năm trước.

Nhìn chung, 2 tháng đầu năm, xuất khẩu sang thị trường Thái Lan đều tăng trưởng ở hầu khắp các mặt hàng, chỉ có một số mặt hàng giảm kim ngạch như rau quả, túi xách, than đá , dệt may…

Mới đây, Bộ Thương mại Thái Lan đang có kế hoạch hợp tác cùng có lợi với Việt Nam và một số nước láng giềng trong buôn bán các nông sản trên thị trường thế giới. Bộ trưởng Thương mại Boonsong Teriyapirom dự định sẽ dẫn đầu một phái đoàn Thái Lan đến thăm Việt Nam, để tìm kiếm sự hợp tác gần gũi hơn nữa giữa hai chính phủ trong thương mại thóc gạo.

Theo ông Boonsong, hai nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới, Thái Lan và Việt Nam cần tăng cường hợp tác nhằm nâng cao khả năng mặc cả và giữ giá ở mức cao.

Trong khi đó, Cơ quan xúc tiến sản xuất sữa Thái Lan (DPO) đang đẩy nhanh việc triển khai chương trình bán sản phẩm ra các thị trường nước ngoài, trong bối cảnh Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) hướng tới thành lập thị trường đơn nhất vào năm 2015.

Việt Nam được nhìn nhận là thị trường có tiềm năng lớn, khi chính phủ thúc đẩy hoạt động sản xuất và kinh doanh sữa để đáp ứng nhu cầu của trên 80 triệu người tiêu dùng. Hiện Việt Nam có khoảng 100.000 con bò, so với 500.000 con bò đang được nuôi tại Thái Lan - nước sản xuất 980.000 tấn sữa nguyên liệu mỗi năm.

Đối với lĩnh vực MICE, Việt Nam là một trong những thị trường chiếm ưu thế của Thái Lan, đặc biệt là trong ngành triển lãm. Bên cạnh đó, năm nay, TCEB sẽ mở rộng tiềm năng trong lĩnh vực hội họp ở Việt Nam. Điều này xuất phát từ thực tế ngành MICE đã có sự tăng trưởng đều đặn trong những năm qua. Về số lượng khách du lịch, Việt Nam xếp thứ 4 trong các quốc gia ASEAN sau Malaysia, Lào và Singapore. Từ năm 2010 đến 2011, tăng trưởng đã lập kỷ lục 2 con số, ước tính khoảng 30%.

Theo bà Supawan - Giám đốc Triển lãm TCEB: “Biên bản ký kết này sẽ tập trung vào phát triển nguồn nhân lực, văn hóa và kinh tế thông qua lĩnh vực triển lãm, hội nghị hội thảo, thi đua khen thưởng góp phần phát triển ngành MICE ở cả hai quốc gia Việt Nam và Thái Lan. Chính vì thế, Thái Lan hoan nghênh và chào đón thị trường MICE Việt Nam. Chúng tôi mong rằng sự liên kết này sẽ làm tăng thị phần của thị trường Việt Nam tại Thái Lan tới 30% và đạt giá trị 2,5 triệu đôla Mỹ”.

Báo cáo xếp hạng các quốc gia và thành phố năm 2010 của ICCA (International Congress and Convention Association) đã cho thấy Thái Lan và Việt Nam vẫn là thị trường tiềm năng cho ngành công nghiệp MICE ở khu vực châu Á Thái Bình Dương và Trung Đông. Cả 2 đều nằm trong danh sách 20 quốc gia có số lượng hội nghị nhiều nhất trong khu vực, trong đó Thái Lan xếp thứ 9 và Việt Nam xếp thứ 13.

Mặc dù quan hệ kinh tế thương mại giữa hai nước phát triển mạnh, nhưng vẫn chưa tương xứng với tiềm năng sẵn có của hai nước. Một số lĩnh vực khác cũng nên có hợp tác khẩn trương trong thời gian tới như du lich, logistic, ngân hang, chế biến nông sản, quản lý thị trường trong nước, phát triển thương mại biên giới…để đẩy mạnh quá trình thực hiện cộng đồng kinh tế ASEAN vào năm 2015.

Xuất khẩu sang Thái Lan hai tháng năm 2012

ĐVT: USD

 

KNXK T2/2012

KNXK 2T/2012

KNXK 2T/2011

% +/- KN T2/2012 so T2/2011

% +/- KN so cùng kỳ

Tổng kim ngạch

190.441.649

336.659.075

219.974.342

109,96

53,04

Điện thoại các loại và linh kiện

27.297.274

52.368.533

 

*

*

máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện

22.628.193

38.874.925

22.135.399

100,65

75,62

máy móc, thiết bị dụng cụ phụ tùng khác

16.110.329

29.176.228

22.135.063

109,99

31,81

sắt thép các loại

12.913.115

26.203.368

8.950.087

195,90

192,77

phương tiện vận tải và phụ tùng

11.718.998

21.893.435

9.901.921

180,09

121,10

sản phẩm từ sắt thép

14.619.594

15.850.801

2.485.018

1.311,17

537,85

xơ, sợi các loại

7.862.039

14.296.141

 

*

*

sản phẩm từ chất dẻo

7.835.335

13.102.691

4.263.024

291,34

207,36

Hàng thủy sản

5.868.916

11.925.002

9.371.100

34,62

27,25

chất dẻo nguyên liệu

6.277.924

10.739.514

3.427.511

296,81

213,33

Kim loại thường khác và sản phẩm

3.598.678

6.737.837

 

*

*

sản phẩm gốm, sứ

3.756.505

6.544.069

2.651.523

269,93

146,80

than đá

1.535.100

5.077.195

7.279.538

13,71

-30,25

hàng dệt, may

2.378.768

4.697.826

4.937.559

3,60

-4,86

hạt điều

2.183.046

4.022.424

1.497.559

207,79

168,60

sản phẩm hóa chất

801.606

3.704.356

5.781.960

-71,28

-35,93

dây điện và dây cáp điện

1.646.272

3.205.823

2.783.735

44,86

15,16

bánh kẹo và các sản phẩm từ ngũ cốc

1.617.604

3.171.881

2.089.776

86,77

51,78

hàng rau quả

1.186.936

2.550.658

4.813.940

20,27

-47,02

giày dép các loại

1.335.354

2.295.911

1.448.091

88,79

58,55

giấy và các sản phẩm từ giấy

881.189

1.653.166

1.359.716

19,28

21,58

sản phẩm từ cao su

991.181

1.579.691

564.115

351,30

180,03

quặng và khoáng sản khác

600.270

1.105.520

582.900

24,05

89,66

xăng dầu các loại

391.418

1.052.804

16.378.896

0,42

-93,57

gỗ và sản phẩm gỗ

239.992

677.006

336.011

59,93

101,48

hạt tiêu

524.346

562.146

 

*

*

Thủy tinh và các sản phẩm từ thủy tinh

266.149

553.425

 

*

*

túi xách, ví, vali, mũ và ô dù

345.816

430.572

512.126

41,83

-15,92

hóa chất

154.626

251.482

945.692

-49,63

-73,41

đá quý, kim loại quý và sản phẩm

157.927

183.896

176.042

105,63

4,46

cà phê

 

 

2.908.078

*

*

Nguồn: Vinanet