Theo số liệu thống kê, xuất khẩu của Việt Nam sang Thổ Nhĩ Kỳ từ tháng 1-10/2012 đạt 688,5 triệu USD, tăng 8,6% so với mức 634 triệu USD cùng kỳ năm 2011. Nhập khẩu từ Thổ Nhĩ Kỳ đạt 75,5 triệu USD. Thặng dư thương mại ở mức rất cao là 613 triệu USD.

Ước cả năm 2012, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam – Thổ Nhĩ Kỳ sẽ đạt 925 triệu USD, tăng 8,6% so với mức 852 triệu USD năm 2011. Trong đó, xuất khẩu ước đạt 825 triệu USD và nhập khẩu ước đạt 100 triệu USD.

Các mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam vào thị trường này bao gồm sơ sợi dệt, điện thoại và linh kiện, cao su, hàng dệt may, máy thiết bị và phụ tùng và giày dép các loại.

Số liệu xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang Thổ Nhĩ Kỳ 10 tháng năm 2012

 
Mặt hàng
ĐVT
Tháng 10/2012
10 tháng/2012
 
 
Lượng
Trị giá (USD)
Lượng
Trị giá (USD)
Tổng
 
 
71.363.448
 
688.508.355
Xơ, sợi dệt các loại
Tấn
10.299
26.156.204
114.314
290.008.081
Điện thoại các loại và linh kiện
USD
 
16.820.952
 
143.475.988
Hàng dệt may
USD
 
5.527.323
 
57.616.428
Cao su
Tấn
1.398
3.497.721
11.705
34.473.730
Máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác
USD
 
1.735.096
 
21.980.902
Giày dép các loại
USD
 
1.500.820
 
15.027.531
Sắt thép các loại
Tấn
638
1.501.958
10.090
14.326.237
Máy vi tính, sp điện tử và linh kiện
USD
 
916.278
 
12.507.987

Chất dẻo nguyên liệu

Tấn
789
1.275.697
5.616
8.497.924
Hạt tiêu
Tấn
191
763.922
1.645
8.169.028
Phương tiện vận tải và phụ tùng
USD
 
399.014
 
6.113.150
Gỗ và sp gỗ
USD
 
470.096
 
5.462.793
Hàng thuỷ sản
USD
 
250.334
 
4.480.712
Gạo
Tấn
599
298.072
2.774
1.223.311
 

10 tháng, nhập khẩu từ Thổ Nhĩ Kỳ đạt 75,5 triệu USD, tăng 10,9% so với mức 68,1 triệu USD cùng kỳ năm 2011. Nhập khẩu tăng chủ yếu do tăng nhập khẩu sắt thép (12 triệu USD so với mức 0,3 triệu USD cùng kỳ năm 2011). Nhập khẩu vải giảm nhẹ, đạt 13 triệu USD so với mức 16,3 triệu USD cùng kỳ năm 2011. Trị giá các mặt hàng máy thiết bị, dược phẩm, sản phẩm hóa chất nhập khẩu tương đương như năm 2011.

Tổng xuất nhập khẩu 10 tháng năm 2012 đạt 764 triệu USD, tăng 8,8% so với mức 702 triệu USD năm 2011.

Nguồn: Vinanet