Thứ nhất, Trung Quốc là một thị trường lớn đầy tiềm năng và đa dạng với dân số 1,7 tỉ người, điều kiện địa lý lại gần với Việt Nam, nhân tố Trung Quốc trong khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc mở ra cho Việt Nam một thị trường lớn để xuất khẩu các sản phẩm nông, lâm thuỷ sản… Đặc biệt, tiềm lực của Trung Quốc đang được gia tăng ngày càng nhanh chóng nhất là về công nghệ và vốn đầu tư sẽ là cơ hội lớn đối với việc mở rộng sự hợp tác giữa các doanh nghiệp hai nước về thương mại, đầu tư, du lịch và chuyển giao công nghệ. Ngược lại, Việt Nam cũng đang đẩy mạnh phát triển kinh tế với mức tăng trưởng mỗi năm ngày càng cao. Đây sẽ là cơ hội để hai nước tăng cường quan hệ thương mại với nhau, giúp nhau phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Thứ hai, với việc giảm thuế mạnh theo các Hiệp định đã ký kết trong ACFTA cộng với điều kiện về mặt địa lý sẽ là điều kiện để tăng cường xuất khẩu các mặt hàng mà hai bên có lợi thế. Hơn nữa, trong những năm gần đây kim ngạch hai nước tăng nhanh sẽ thúc đẩy thương mại hai bên phát triển. Đặc biệt, Việt nam sẽ có nhiều lợi thế về giá thành sản xuất nông nghiệp đối với các nông sản như gạo, cà phê,  hồ tiêu, điều, thuỷ sản, rau quả, cao su… nhờ điều kiện tự nhiên đất đai, khí hậu, nhân công rẻ, việc vận chuyển thuận lợi, nhanh chóng. Theo phân tích của Thương vụ Việt Nam tại Trung Quốc và Đề án đẩy mạnh xuất khẩu sang Trung Quốc giai đoạn 2008-2015, có 14 mặt hàng, nhóm hàng mà Việt Nam có nhiều tiềm năng để đẩy mạnh xuất khẩu sang Trung Quốc, thể hiện ở chỗ nhu cầu của thị trường Trung Quốc đối với mặt hàng này rất lớn đó là: cao su, cà phê, gạo, chè, dây cáp điện, giày dép, hạt điều, hạt tiêu…
Ví dụ đối với một số mặt hàng cụ thể như sau:
Về xuất khẩu cà phê, hiện nay nhu cầu của Trung Quốc đối với mặt hàng này là trên 100 triệu USD/năm và đang là nhu cầu mới của lớp thanh niên chủ yếu ở phía Nam Trung Quốc.
Về xuất khẩu cao su, không chỉ giá mặt hàng này ngày càng tăng liên tục tại thị trường Trung Quốc mà nhu cầu nhập nguyên liệu của Trung Quốc cũng ngày càng tăng. Riêng năm 2006, Trung Quốc nhập khoảng 776 triệu USD từ Việt Nam. Hiện nay, các doanh nghiệp Việt Nam chỉ xuất khẩu chừng 500-600 tấn/ngày để đợi thời cơ tốt hơn. Nhu cầu nhập khẩu cao su từ phía đối tác Trung Quốc đang có dấu hiệu tăng và dự đoán có thể hơn 1000 tấn/ngày.
Về xuất khẩu gạo, trong ASEAN có hai nước xuất khẩu gạo lớn là Thái Lan và Việt Nam, hai nước có tiềm năng là Myanmar và Campuchia. So với Thái Lan, hiện nay Việt Nam đang có lợi thế về giá thành sản xuất (thấp hơn Thái Lan từ 15-30%). Trên thị trường, hiện nay, Việt Nam có lợi thế về tạo trung bình và cấp thấp, trong khi đó, năng suất gạo của Trung Quốc khá cao nhưng giá thành sản xuất cũng cao. Tuy là nước xuất khẩu gạo nhưng Trung Quốc vẫn  phải nhập khẩu gạo chất lượng cao để p hục vụ thành thị. Do vậy, muốn tăng cường xuất khẩu gạo vào Trung Quốc, Việt Nam cần phải sản xuất gạo đặc sản, chất lượng cao.
Về than đá, hiện nay, Trung Quốc đang là nhà nhập khẩu lớn của Việt Nam, tuy nhiên, dự kiến nhu cầu nội địa sẽ tăng đáng kể do xây dựng các nhà máy nhiệt điện mới nên xuất khẩu cũng sẽ dao động ở mức 4 triệu tấn/năm, mang lại kim ngạch mỗi năm khoảng 120-150 triệu USD. Trung Quốc vẫn sẽ là thị trường chính của Việt Nam trong những năm tới.
Về thuỷ sản, đây là mặt hàng có tiềm năng lớn do tiềm năng khai thác và nuôi trồng còn nhiều, nhu cầu thị trường thế giới tăng khá ổn định. Dự kiến Trung Quốc sẽ tiếp tục là nhà nhập khẩu lớn của mặt hàng này. Việc thành lập ACFTA tạo ra một Khu vực mậu dịch rộng lớn nhất thế giới sẽ tạo cơ hội cho Việt Nam mở rộng thị trường xuất nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ, thúc đẩy sự phát triển thương mại.
Thứ ba, sự gia tăng hợp tác giữa ASEAN – Trung Quốc ngày càng chặt chẽ cùng với vai trò, ngày càng có tiếng nói trong tổ chức ASEAN của Việt Nam sẽ góp phần thúc đẩy quan hệ thương mại hai chiều, thúc đẩy hợp tác tiểu vùng sông Mê Kông mở rộng, hợp tác giữa các tỉnh phía Bắc của Việt Nam với hai tỉnh Vân Nam và Quảng Tây của Trung Quốc, tái tạo và làm sống động “hai hàng lang, một vành đai kinh tế” lưu thông hàng hoá là Côn Minh – Lào Cai – Hà Nội - Hải Phòng và Nam Ninh - Lạng Sơn – Hà Nội - Hải Phòng.
Thứ tư, trong thời gian qua, tình hữu nghị giữa hai nước ngày càng được củng cố tạo đà cho phát triển quan hệ kinh tế.  Hai nước đã phối hợp tổ chức nhiều hội chợ, triển lãm hàng hoá lớn như Hội chợ Quốc tế hàng xuất khẩu Côn Minh, Hội chợ Thương mại Việt – Trung lần thứ 3 tại tỉnh Lào Cai; Triển lãm hàng hoá Trung Quốc lần thứ 3… Các cuộc triển lãm, hội chợ này đã có tác dụng tuyên truyền quảng bá sản phẩm của hai nước, nhằm tăng cường sự hiểu biết hơn nữa đối với hàng hoá của hai bên. Đồng thời, thông qua các cuộc hội chợ, triển lãm, doanh nghiệp hai nước có cơ hội mở rộng mối quan hệ, tìm đối tác và hợp tác lâu dài. Bên cạnh đó, lãnh đạo cao cấp hai bên cũng đã có những chuyến thăm chính thức lẫn nhau, đạt được nhiều thoả thuận tốt đẹp, nâng mối quan hệ Việt – Trung lên một tầm cao mới.
Phát triển quan hệ thương mại với Trung Quốc trong sự hình thành Khu mậu dịch tự do ACFTA còn tạo cơ hội cho Việt Nam tiếp thu khoa học công nghệ mới, tiếp thu kiến thức và kinh nghiệm quản lý kinh tế và quản trị kinh doanh từ ngay các nước phát triển năng động và có hiệu quả trong khu vực, có điều kiện nâng cao khả năng cạnh tranh và mở rộng quan hệ thương mại với các nước khắp châu lục trên thế giới.

Nguồn: Vinanet