Thông tư này hướng dẫn thủ tục thu nộp ngân sách Nhà nước đối với các khoản thuế, phí, lệ phí, tiền thuê đất, tiền thuê mặt nước, tiền sử dụng đất, tiền cấp quyền khai thác khoáng sản và các khoản thu khác do cơ quan Thuế quản lý thu theo quy định của pháp luật, không bao gồm các khoản thu nộp phát sinh tại khâu xuất khẩu, nhập khẩu.

Về ngày nộp thuế, Thông tư quy định: Trường hợp nộp thuế qua giao dịch điện tử, ngày nộp thuế là ngày hệ thống thanh toán của ngân hàng/ cơ quan Kho bạc Nhà nước trích tiền từ tài khoản của người nộp thuế/ người nộp thay và được ghi nhận trên chứng từ nộp thuế điện tử.

Nếu nộp thuế bằng tiền mặt hoặc chuyển khoản tại quầy giao dịch, ngày nộp thuế là ngày ngân hàng/ cơ quan Kho bạc Nhà nước thu tiền mặt hoặc trích tiền từ tài khoản của người nộp thuế/người nộp thay và được ghi nhận trên chứng từ cấp cho người nộp thuế/người nộp thay.

Trong khi đó, nộp thuế qua tổ chức ủy nhiệm thu thuế, ngày nộp thuế là ngày người nộp thuế/người nộp thay nộp tiền mặt cho tổ chức ủy nhiệm thu thuế, hoặc ngày thực hiện giao dịch chuyển tiền từ tài khoản của người nộp thuế/người nộp thay để nộp thuế và được ghi nhận trên biên lai, chứng từ do tổ chức ủy nhiệm thu thuế cấp cho người nộp thuế/người nộp thay.

Cơ quan Thuế có trách nhiệm cập nhật kịp thời các thông tin về danh mục dùng chung, dữ liệu về người nộp thuế, dữ liệu về khoản thuế trên Cổng thông tin điện tử của Tổng cục Thuế; phối hợp với ngân hàng để ký và thực hiện thỏa thuận hợp tác phối hợp thu ngân sách Nhà nước; hỗ trợ ngân hàng/cơ quan Kho bạc Nhà nước về nghiệp vụ và kỹ thuật trong quá trình triển khai phối hợp thu ngân sách Nhà nước.

Cơ quan Thuế cũng phải cấp tài khoản giao dịch nộp thuế điện tử cho người nộp thuế; hướng dẫn người nộp thuế trong việc lập bảng kê nộp thuế hoặc giấy nộp tiền vào ngân sách Nhà nước; cung cấp cho người nộp thuế dữ liệu về khoản thuế để phục vụ việc lập chứng từ nộp tiền đầy đủ và chính xác; xác nhận số thuế đã nộp theo đề nghị của người nộp thuế,...

Đặc biệt, nếu ngân hàng không đáp ứng thỏa thuận phối hợp thu ngân sách Nhà nước hoặc có hành vi vi phạm pháp luật về quản lý thuế, cơ quan Thuế được phép xem xét đình chỉ hoặc chấm dứt việc tham gia phối hợp thu ngân sách Nhà nước với ngân hàng.

Đối với ngân hàng ủy nhiệm thu, ngân hàng phối hợp thu, Thông tư cho phép khai thác và bảo mật thông tin liên quan đến thu nộp ngân sách Nhà nước do cơ quan Thuế cung cấp trên Cổng thông tin điện tử của Tổng cục Thuế.

Các ngân hàng này có trách nhiệm thực hiện thỏa thuận hợp tác phối hợp thu ngân sách Nhà nước đã ký với Tổng cục Thuế (hoặc với Tổng cục Thuế và Kho bạc Nhà nước); hướng dẫn người nộp thuế kê khai các thông tin nộp thuế trên bảng kê nộp thuế; cấp chứng từ nộp thuế vào ngân sách Nhà nước có chữ ký, họ và tên của người lập, người duyệt chứng từ nộp thuế; cấp chứng từ nộp thuế phục hồi hoặc bản sao chứng từ nộp thuế theo đề nghị của người nộp thuế; chuyển tiền thanh toán các khoản thu ngân sách Nhà nước vào tài khoản của cơ quan Kho bạc Nhà nước mở tại ngân hàng ủy nhiệm thu đầy đủ, chính xác, kịp thời theo đúng quy định.

Nếu ngân hàng chuyển thiếu, chuyển chậm tiền thuế đã thu vào tài khoản của cơ quan kho bạc nhà nước thì ngân hàng phải chuyển đủ số thuế đã thu vào tài khoản của cơ quan Kho bạc Nhà nước, đồng thời chịu trách nhiệm trả tiền chậm nộp cho khoản tiền thuế bị chuyển thiếu, chuyển chậm theo quy định của pháp luật về quản lý thuế.

Thông tư này có hiệu lực từ ngày 2-8-2016 và bãi bỏ giấy nộp tiền vào ngân sách Nhà nước (mẫu số C1-02/NS), giấy nộp tiền vào ngân sách Nhà nước bằng ngoại tệ (mẫu số C1-03/NS), bảng kê nộp thuế (mẫu số 01/BKNT) đang thực hiện.

Nguồn: baohaiquan.vn