Trên thị trường năng lượng, giá dầu tiếp tục tăng lên mức cao nhất kể từ trước đợt phong tỏa Covid-19 lần đầu tiên nhờ việc Saudi Arabia tự nguyện cam kết cắt giảm sản lượng sâu hơn mức thị trường kỳ vọng.
Kết thúc phiên giao dịch, dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) kỳ hạn tháng 2/2021 tăng 20 US cent lên 50,83 USD/thùng; dầu Brent kỳ hạn tháng 3/2021 tăng 8 US cent, lên 54,38 USD/thùng.
Chuyên gia năng lượng Carsten Fritsch thuộc Commerzbank Research cho rằng việc tự nguyện cắt giảm sản lượng dầu của Saudi Arabia khiến thị trường năng lượng có thể thu hẹp nguồn cung trong quý I/2021 giữa bối cảnh nhu cầu năng lượng yếu do các biện pháp hạn chế đi lại mà nhiều quốc gia đang áp dụng được áp dụng ở nhiều quốc gia để ngăn chặn sự lây lan của đại dịch COVID-19.
Saudi Arabia, nước xuất khẩu dầu mỏ lớn nhất thế giới, ngày 5/1 cam kết tự nguyện cắt giảm 1 triệu thùng dầu/ngày, lớn hơn so với mức hạn ngạch yêu cầu của Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) và các nước sản xuất dầu liên minh (OPEC+) trong tháng 2 và 3/2021.
Phiên vừa qua, giá dầu tăng một phần nữa cũng bởi Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) thông báo dự trữ dầu thô của nước này giảm 8 triệu thùng trong tuần kết thúc vào ngày 1/1, nhiều hơn mức dự đoán là giảm 2,1 triệu thùng.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giảm do USD và lợi suất trái phiếu Chính phủ Mỹ mạnh lên. Tuy nhiên, đà giảm được hạn chế bởi triển vọng về gói kích thích kinh tế khổng lồ của Mỹ.
Theo đó, giá vàng giao ngay giảm 0,3% xuống 1.913,87 USD/ounce; vàng kỳ hạn tháng 2/2021 tăng 0,3% lên 1.913,6 USD. Như vậy, giá đã giảm khoảng 2,5% so với mức cao nhất kể từ ngày 9/11 đạt được hôm 6/1.
Lợi suất trái phiếu Chính phủ Mỹ kỳ hạn 10 năm tăng hơn 1% lần đầu tiên kể từ tháng 3/2020.
Bob Haberkorn, chiến lược gia tại RJO Futures, nhận định đà tăng của lợi suất trái phiếu Chính phủ Mỹ đã thúc đẩy hoạt động bán ra trên thị trường vàng.
Thêm vào đó, sự mạnh lên của đồng USD cũng gây áp lực lên lên giá vàng. Chỉ số đồng USD đã phục hồi từ mức thấp nhất trong nhiều năm, khiến vàng kém hấp dẫn hơn đối với những người nắm giữ tiền tệ khác. Song ông Haberkorn cho rằng đà tăng của đồng bạc xanh có thể sẽ không kéo dài.
Trong khi đó, việc đảng Dân chủ tại Mỹ nắm được quyền kiểm soát Thượng viện sau khi giành được chiến thắng trong hai cuộc bầu cử bổ sung ở Georgia, thúc đẩy kỳ vọng về gói kích thích kinh tế mới. Nhà phân tích Suki Cooper của Standard Chartered đánh giá chiến thắng của đảng Dân chủ làm tăng kỳ vọng gói kích thích sẽ được mở rộng và chi tiêu cho cơ sở hạ tầng sẽ ở mức tăng lên. Dự báo lạm phát sẽ hỗ trợ đà đi lên của giá vàng trong thời gian tới.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giảm 0,5% xuống 27,16 USD/ounce, bạch kim tăng 1,4% lên 1.117,06 USD/ounce, trong khi palađi giảm 0,6% xuống 2.423,82 USD/ounce.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng tiếp tục vững ở mức cao nhất 8 năm do dự đoán chi tiêu cho cơ sở hạ tầng của Mỹ sẽ tăng sau khi ông Joe Biden lên nắm chức Tổng thống và đảng Dân chủ của ông năm quyền kiểm soát Thượng viện.
Kết thúc phiên giao dịch, giá đồng giao sau ba tháng trên sàn London (LME) tăng 1,5% lên 8.160 USD/tấn, sau khi có lúc chạm 8.182 USD, cao nhất kể từ tháng 2/2013. Giá nickel - chủ yếu sử dụng để sản xuất thép không gỉ - trên sàn LME đạt cao nhất kể từ tháng 9/2019 tăng 1,6% đạt 18.060 USD/tấn, sau khi giá thép không gỉ tại Trung Quốc tăng vọt 5% và tồn kho tại quốc gia này giảm.
Trong nhóm sắt thép, giá thép không gỉ của Trung Quốc tăng 5% do chi phí nickel tăng và nguồn cung khan hiếm. Hợp đồng thép không gỉ kỳ hạn tháng 3 tại sàn giao dịch Thượng Hải tăng lên 14.725 CNY (2.280,72 USD)/tấn, cao nhất kể từ cuối tháng 10/2020. Giá quặng sắt cũng tăng, theo đó hợp đồng kỳ hạn tháng 5 trên sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên đóng cửa tăng 3,1% lên 1.062,50 CNY/tấn; quặng sắt giao tháng 2 tại Singapore tăng 1,2% lên 167 USD/tấn.
Trên thị trường nông sản, giá đường thô kỳ hạn tháng 3/2021 đóng cửa giảm 0,65 US cent hay 4% xuống 15,6 US cent, sau khicó lúc tăng lên 16,33 US cent, cao nhất kể từ tháng 5/2017; đường trắng kỳ hạn tháng 3 giảm 10,6 USD hay 2,4% xuống 432,8 USD/tấn.
Giá đường tăng trong năm nay bởi các quỹ mua mạnh khi các nhà đầu tư đặt cược vào sự phục hồi kinh tế toàn cầu và lạc quan về các mặt hàng nông sản, đặc biệt những mặt hàng nguồn cung cấp khan hiếm. Nguồn cung đường dự kiến vẫn khan hiếm ít nhất tới tháng 4, khi sản lượng tại Brazil có thể bắt đầu tăng trở lại.
Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 3 lúc đóng cửa tăng 0,2 US cent lên 121,1 US cent; cà phê robusta kỳ hạn tháng 3 giảm 20 USD hay 1,5% xuống 1.336 USD/tấn.
Tại Châu Á, giao dịch cà phê tại Việt Nam trầm lắng do nhu cầu yếu. Người trồng cà phê ở Tây Nguyên bán cà phê với giá 32.200 – 32.600 đồng/kg, phù hợp với giá tại London. Cách đây một tuần giá ở mức 33.200 đồng. Cà phê robusta loại 2 (5% đen và vỡ) xuất khẩu chào bán ở mức cộng 90 – 100 USD so với hợp đồng kỳ hạn tháng 3 tại London, giảm từ mức cộng 135 – 145 USD trong tuần trước. Tại Indonesia, cà phê Sumatra được chào bán ở mức cộng 230 – 275 USD so với hợp đồng kỳ hạn tháng 3 và cộng 270 – 280 USD so với hợp đồng kỳ hạn tháng 4 trên sàn London.
Trên thị trường cao su, giá tại Nhật Bản đóng cửa ở mức cao nhất trong gần 3 tuần, bất chấp kế hoạch ban bố tình trạng khẩn cấp tại Tokyo do số co nhiễm Covid-19 tăng.
Hợp đồng cao su giao kỳ hạn tháng 6/2021 trên sàn Osaka tăng 7 JPY hay 2,9% đóng cửa tại 245 JPY (2,37 USD)/kg sau khi giảm trong đầu phiên bởi chính phủ khẳng định kế hoạch ban bố tình trạng khẩn cấp. Hợp đồng cao su tại Thượng Hải giao tháng 5/2021 lúc đóng cửa tăng 3,5% lên 14.875 CNY (2.304 USD)/tấn.
Giá hàng hóa thế giới sáng 8/1

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

50,94

+0,11

+0,22%

Dầu Brent

USD/thùng

54,38

+0,08

+0,15%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

34.280,00

+170,00

+0,50%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,70

-0,03

-1,17%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

148,58

+0,31

+0,21%

Dầu đốt

US cent/gallon

154,14

+0,33

+0,21%

Dầu khí

USD/tấn

436,25

+1,50

+0,34%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

49.020,00

+130,00

+0,27%

Vàng New York

USD/ounce

1.916,30

+2,70

+0,14%

Vàng TOCOM

JPY/g

6.408,00

+22,00

+0,34%

Bạc New York

USD/ounce

27,29

+0,02

+0,09%

Bạc TOCOM

JPY/g

91,30

+0,60

+0,66%

Bạch kim

USD/ounce

1.120,77

+1,22

+0,11%

Palađi

USD/ounce

2.429,00

-0,01

0,00%

Đồng New York

US cent/lb

370,70

+1,10

+0,30%

Đồng LME

USD/tấn

8.179,00

+141,50

+1,76%

Nhôm LME

USD/tấn

2.036,50

-2,00

-0,10%

Kẽm LME

USD/tấn

2.888,00

+28,00

+0,98%

Thiếc LME

USD/tấn

21.110,00

+5,00

+0,02%

Ngô

US cent/bushel

494,00

-1,00

-0,20%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

642,25

-5,25

-0,81%

Lúa mạch

US cent/bushel

355,25

-4,50

-1,25%

Gạo thô

USD/cwt

12,70

+0,01

+0,08%

Đậu tương

US cent/bushel

1.355,25

-6,25

-0,46%

Khô đậu tương

USD/tấn

432,20

-6,10

-1,39%

Dầu đậu tương

US cent/lb

43,79

-0,05

-0,11%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

656,80

+4,80

+0,74%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.547,00

+61,00

+2,45%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

121,10

+0,20

+0,17%

Đường thô

US cent/lb

15,60

-0,65

-4,00%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

126,40

+0,95

+0,76%

Bông

US cent/lb

79,76

-0,30

-0,37%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

718,00

+14,70

+2,09%

Cao su TOCOM

JPY/kg

162,80

+3,70

+2,33%

Ethanol CME

USD/gallon

1,57

0,00

0,00%

 

 

Nguồn: VITIC/Reuters, Bloomberg