Xuất khẩu tôm đứng thứ 2 toàn cầu
Theo ông Nguyễn Hoài Nam - Tổng thư ký Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam VASEP), xuất khẩu thủy sản trong 9 tháng năm 2025 đạt 8,3 tỷ USD (tăng 15,5% so với cùng kỳ). Việt Nam tiếp tục duy trì vị thế là một trong những quốc gia xuất khẩu thủy sản hàng đầu thế giới.
Đặc biệt, trong lĩnh vực xuất khẩu tôm, Việt Nam đứng thứ hai toàn cầu, chiếm khoảng 13-14% tổng giá trị xuất khẩu tôm thế giới.
Theo VASEP, xuất khẩu thủy sản cần có động lực tăng trưởng mới trong bối cảnh thế giới quá nhiều bất định, thay đổi nhanh trong kỷ nguyên số. Dự báo tăng trưởng tiêu thụ thủy sản toàn cầu chỉ đạt mức 5-6%/năm trong khi ngành thủy sản Việt Nam đặt mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu 2 con số trong thời gian tới.
Để đạt được mục tiêu trên, ngành thủy sản không chỉ cố gắng giữ vững thị phần, tăng hàm lượng chế biến GTGT, mà cần nghiên cứu để có một mô hình tăng trưởng mới phù hợp.
Từ góc nhìn của Hiệp hội, VASEP cho rằng, việc tạo động lực cho nông - ngư dân nuôi trồng và khai thác: đây là vấn đề cốt lõi quan trọng. Nguyên liệu cho xuất khẩu và tiêu dùng là vấn đề sống còn và là tiền đề cho tăng trưởng. Nông-ngư dân là lực lượng lớn tham gia trong ngành, nhưng không ít trong số đó vẫn còn khó khăn, còn những bất cập khác nhau.
Vậy làm sao để ngư dân, bên cạnh việc tuân thủ các quy định pháp luật bao gồm cả IUU, có động lực để tăng cường khai thác biển, tái đầu tư để vươn khơi xa?
Theo VASEP, giải pháp có thể nghĩ tới là có chợ đấu giá (để bán được giá tốt nhất cho ngư dân) và tập trung được dữ liệu truy xuất nguồn gốc; rà soát, sửa đổi phù hợp các quy định liên quan đến vùng khai thác (bờ, lộng, khơi); rà soát, sửa đổi phù hợp các quy định liên quan đến kích thước khai thác tối thiểu của một số loài – đặc biệt là cá ngừ vằn, ngừ vây vàng & các loài di cư; xem xét khơi thông xuất khẩu được con ruốc (không cần S/C, C/C) sang thị trường EU vì khai thác ruốc chỉ dùng thuyền thúng và gần bờ, tạo thuận lợi cho đời sống ngư dân...
Có chiến lược xây dựng mô hình các Tập đoàn/doanh nghiệp lớn về khai thác biển để hợp tác khai thác với các quốc gia có biển – không chỉ mở rộng phạm vi hoạt động mà còn tạo động lực mới cho ngư dân khai thác biển, cho nguồn nguyên liệu dồi dào bền vững hơn.
Gỡ vướng về kiểm tra chuyên ngành
Để tạo động lực cho doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu thủy sản, VASEP kiến nghị Chính phủ, Bộ Ngoại giao và Bộ Công Thương tập trung các hoạt động ngoại giao kinh tế, đàm phán song phương và xúc tiến thương mại có mục tiêu tại các thị trường quan trọng để khơi thông lợi thế cho thủy sản Việt Nam.
Chẳng hạn, thị trường Nhật Bản nhập khẩu tôm Việt Nam đứng đầu 2024, nhưng có thể sẽ bị tôm Indonesia soán ngôi đầu do Indonesia bị áp thuế cao ở Mỹ và sẽ tìm cách chuyển đổi qua Nhật Bản.
Đồng thời, thúc đẩy việc đàm phán với Hàn Quốc để bãi bỏ hạn ngạch đối với tôm Việt Nam xuất khẩu vào Hàn Quốc trong khuôn khổ Hiệp định VKFTA nhằm điều chỉnh thuế suất về 0% cho tôm Việt Nam; thúc đẩy các hoạt động mở rộng thị phần tại khu vực các nước Trung đông và Halal…
Kiến nghị Bộ Nông nghiệp và môi trường tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh, đơn giản hóa các thủ tục hành chính, như: Đẩy mạnh việc ứng dụng chuyển đổi số để áp dụng triệt để trong các quy trình, thủ tục hành chính với doanh nghiệp, tránh việc áp dụng song song “số” và “giấy”; xem xét bãi bỏ việc kiểm tra ADN dê, cừu và ngựa trong sản phẩm bột cá.
Tiếp tục xem xét theo nguyên tắc quản lý rủi ro để có hướng dẫn cho việc kiểm tra chuyển đổi mục đích sử dụng nguyên liệu thủy sản (nhập sản xuất xuất khẩu, gia công xuất khẩu sang nội địa).
Với "Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa" và các Nghị định hướng dẫn hiện hành - mà Chính phủ đang chỉ đạo Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì sửa đổi, cần bãi bỏ cách tiếp cận của 20 năm trước khi ban hành "danh mục hàng hóa nhóm 2" khiến đa phần các sản phẩm đều phải làm thủ tục "công bố" khi lưu hành.
Cụ thể, bỏ quy định yêu cầu "công bố hợp quy, công bố hợp chuẩn", bỏ danh mục hàng hóa nhóm 2 - thay vào đó là quản lý bằng quy chuẩn kỹ thuật như các nước đang thực hiện;
Thay đổi cách tiếp cận quản lý từ "tiền kiểm" sang "hậu kiểm" theo nguyên tắc quản lý rủi ro (dựa vào: mức rủi ro của sản phẩm, lịch sử tuân thủ của doanh nghiệp, và cảnh báo quốc tế).
Từ đó, các Bộ quản lý chuyên ngành, bên cạnh việc áp dụng các quy chuẩn kỹ thuật, phân ra các nhóm sản phẩm: Miễn kiểm tra, kiểm tra giảm, kiểm tra thường và kiểm tra chặt; không áp dụng các biện pháp quản lý chất lượng của hàng lưu thông trong nước đối với hàng hóa xuất khẩu.

Nguồn: thuehaiquan.tapchikinhtetaichinh.vn