Giá thép hôm nay 5/5: Giá thép giảm, ngành xây dựng sẽ bớt áp lực đầu vào
Thép trong nước giảm lần thứ 4
Giá thép hôm nay ghi nhận nhiều thương hiệu thông báo giảm tiếp giá thép xây dựng từ 50 đồng/kg - 450 đồng/kg. Đây đã là phiên giảm thứ 4 liên tiếp tính từ 8/4 đến nay.
Hiện giá thép xây dựng xoay quanh mức 14.720 đồng/kg - 15.660 đồng/kg (tùy từng thương hiệu và chủng loại thép).
Trước đó, Hiệp hội Thép Việt Nam (VSA) cũng đã có dự báo giá thép trong nước sẽ còn giảm tiếp.
Về nguyên nhân giảm giá thép, Hiệp hội Thép Việt Nam (VSA) cho biết do nhu cầu thép toàn cầu sụt giảm, nhất là ở các khu vực Mỹ, EU và Trung Quốc chưa thấy tín hiệu kiểm soát được lạm phát, trong khi nhu cầu tiêu thụ thép trong nước sụt giảm mạnh khiến doanh nghiệp sản xuất phải hạ giá bán để đẩy nhanh hàng tồn kho.
Bên cạnh đó, giá các nguyên liệu đầu vào cho sản xuất thép cũng đang có xu hướng giảm.
Theo VSA, hầu hết hoạt động sản xuất thời gian qua của doanh nghiệp gặp khó khăn, cán cân cung - cầu ngành thép hiện tại vẫn chưa thực sự có thay đổi nhiều. Tình trạng khó khăn của thị trường có thể tiếp tục kéo dài về cuối năm.
Sau khi giảm phiên thứ tư, giá thép trong nước hôm nay cụ thể như sau:
Giá thép tại miền miền Bắc
Theo SteelOnline.vn, thương hiệu thép Hòa Phát giảm giá bán, dòng thép cuộn CB240 giảm 100 đồng, xuống mức 14.900 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 15.390 đồng/kg - giảm 60 đồng.
Thép Việt Ý, hiện thép cuộn CB240 quay đầu giảm 380 đồng, xuống mức 14.620 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 không thay đổi, ở mức 15.250 đồng/kg.
Thép Việt Sing giảm giá bán với 2 sản phẩm của hãng. Cụ thể, thép cuộn CB240 ở mức 14.820 đồng/kg - giảm 200 đồng; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 15.220 đồng/kg - giảm 260 đồng.
Thép Việt Đức giảm giá lần thứ 4, hiện ghi nhận 2 sản phẩm của hãng gồm thép cuộn CB240 có giá 14.640 đồng/kg; với thép thanh vằn D10 CB300 xuống mức 15.250 đồng/kg.
Thép VAS hạ giá bán, hiện dòng thép cuộn CB240 ở mức 14.720 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 15.020 đồng/kg.
Thép Việt Nhật, với dòng thép cuộn CB240 giảm 100 đồng, xuống mức 14.820 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 15.120 đồng/kg.
Giá thép tại miền Trung
Thép Hòa Phát giảm nhẹ, với dòng thép cuộn CB240 ở mức 15.900 đồng/kg - giảm 50 đồng; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 15.250 đồng/kg - giảm 100 đồng.
Thép Việt Đức, hiện dòng thép cuộn CB240 giảm 300 đồng, xuống mức 15.050 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 giảm 100 đồng, có giá 15.660 đồng/kg.
Thép VAS cũng giảm giá bán, hiện dòng thép cuộn CB240 ở mức 14.820 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 14.770 đồng/kg.
Thép Pomina không thay đổi, với dòng thép cuộn CB240 ở mức 15.810 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 15.860 đồng/kg.
Giá thép tại miền Nam
Thép Hòa Phát có sự thay đổi, với thép cuộn CB240 từ mức 15.050 đồng/kg xuống còn 14.920 đồng/kg. Tuy nhiên, thép thanh vằn D10 CB300 tăng 200 đồng, có giá 15.550 đồng/kg.
Thép VAS điều chỉnh giá xuống ngang với thị trường miền Trung, dòng thép cuộn CB240 ở mức 14.820 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 14.770 đồng/kg.
Thép Tung Ho, với thép cuộn CB240 ở mức 15.430 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 15.730 đồng/kg.
Thép Pomina bình ổn từ 12/4 tới nay, hiện dòng thép cuộn CB240 ở mức 16.370 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 16.680 đồng/kg.
Giá heo hơi hôm nay 5/5: Tăng – giảm cao nhất 2.000 đồng/kg
Giá heo hơi hôm nay 5/5 tăng – giảm cao nhất 2.000 đồng/kg sau thời gian gần một tuần không ghi nhận sự biến động.
Tại khu vực miền Bắc, giá heo hơi hôm nay tăng – giảm từ 1.000 – 2.000 đồng/kg và dao động trong khoảng 52.000 - 54.000 đồng/kg. Trong đó, sau khi giảm 1.000 đồng/kg, giá heo hơi hôm nay tại Vĩnh Phúc và Hưng Yên lần lượt ghi nhận ở mức 52.000 đồng/kg và 53.000 đồng/kg.
Ở chiều ngược lại, cùng điều chỉnh tăng 1.000 đồng/kg, thương lái các tỉnh Yên Bái, Lào Cai và Tuyên Quang đang cùng thu mua heo hơi ở mức 52.000 đồng/kg. Còn tại Bắc Giang, sau khi điều chỉnh tăng 2.000 đồng/kg, heo hơi hôm nay được thương lái thu mua với giá cao nhất là 54.000 đồng/kg. Các địa phương khác không ghi nhận sự biến động về giá.
Tại khu vực miền Trung – Tây Nguyên, giá heo hơi hôm nay tăng - giảm không đồng nhất từ 1.000 - 2.000 đồng/kg và dao động trong khoảng 51.000 - 54.000 đồng/kg. Cụ thể, sau khi tăng nhẹ 1.000 đồng/kg, mức giá 53.000 đồng/kg được ghi nhận tại các tỉnh gồm Thanh Hóa, Đắk Lắk và Bình Thuận. Ở chiều ngược lại, sau khi giảm 2.000 đồng/kg, thương lái tại Bình Định đang thu mua heo hơi ở mức 52.000 đồng/kg. Các địa phương khác không ghi nhận sự biến động về giá, trong đó, mức giá thấp nhất khu vực 51.000 đồng/kg được ghi nhận tại Quảng Bình. Ở chiều ngược lại, mức giá cao nhất khu vực 54.000 đồng/kg được ghi nhận tại Lâm Đồng.
Tại khu vực miền Nam, giá heo hơi hôm nay biến động trái chiều theo xu hướng chung của thị trường và dao động trong khoảng 52.000 - 55.000 đồng/kg. Theo đó, sau khi tăng 1.000 đồng/kg, giá heo hơi tại TP. Hồ Chí Minh, Sóc Trăng và Đồng Nai đang được thương lái thu mua tương ứng lần lượt là 52.000 đồng/kg, 53.000 đồng/kg và 54.000 đồng/kg. Sau khi tăng 2.000 đồng/kg, thương lái tại tỉnh Long An thu mua heo hơi với giá 55.000 đồng/kg - cao nhất khu vực. Ở chiều ngược lại, sau khi hạ một giá, tại tỉnh Trà Vinh thương lái thu mua heo hơi xuống còn 52.000 đồng/kg. Các địa phương khác không ghi nhận sự biến động về giá và dao động trong khoảng 52.000 – 54.000 đồng/kg.
Giá cà phê hôm nay, 5/5: Giá cà phê trong nước cao nhất 52.600 đồng/kg
Giá cà phê trong nước hôm nay 5/5 đi ngang so với hôm qua, dao động từ 51.800 – 52.600 đồng/kg.
Giá cà phê trong nước hôm nay 5/5 tại các tỉnh khu vực Tây Nguyên không biến động.
Cụ thể, giá cà phê nhân xô (cà phê nhân, cà phê nhân tươi) tại tỉnh Lâm Đồng, ở các huyện như Bảo Lộc, Di Linh, Lâm Hà được thu mua với giá từ 51.700 – 51.800 đồng/kg.
Giá cà phê tại tỉnh Gia Lai, tỉnh Kon Tum đi ngang, đứng ở mức giá 52.400 đồng/kg.
Tại tỉnh Đắk Nông, cà phê được thu mua với giá 52.500 đồng/kg.
Giá cà phê hôm nay tại tỉnh Đắk Lắk đi ngang, tại huyện Cư M'gar giá cà phê hiện ở mức 52.500 đồng/kg. Còn tại huyện Ea H'leo, thị xã Buôn Hồ được thu mua cùng mức 52.600 đồng/kg.
Đối với giá cà phê thế giới, giá cà phê trên hai sàn đang cùng xu hướng giảm.
Cụ thể, kết thúc phiên giao dịch gần nhất, giá cà phê Robusta trên sàn London kỳ hạn giao ngay tháng 7 giảm 11 USD, còn 2.413 USD/tấn và kỳ hạn giao tháng 9 giảm 11 USD, còn 2.390 USD/tấn, các mức giảm nhẹ. Khối lượng giao dịch dưới mức trung bình.
Cùng xu hướng, giá cà phê Arabica trên sàn New York tiếp tục sụt giảm. Kỳ hạn giao ngay tháng 7 giảm thêm 2,25 cent, xuống 183,25 cent/lb và kỳ hạn giao tháng 9 giảm thêm 2,15 cent, còn 180,70 cent/lb, các mức giảm đáng kể. Khối lượng giao dịch rất thấp dưới mức trung bình.
Theo chuyên gia, giá cà phê Robusta bị áp lực giảm do Tổng cục Thống kê Việt Nam ước tính xuất khẩu cà phê tháng 4 tăng tới 27,02% so với cùng kỳ năm trước.
Trước đó, theo số liệu từ Tổng cục Hải quan xuất khẩu cà phê của Việt Nam tính từ đầu năm 2023 đến ngày 15/04/2023 ở mức 634.032 tấn, thấp hơn so với mức 662.816 tấn của cùng kỳ năm trước.
Hiện tại, giá cà phê trong nước và quốc tế đang ở mức cao so với nhiều năm trở lại đây, tạo cơ hội để Việt Nam có thể duy trì mức kim ngạch xuất khẩu cà phê trên 4 tỷ USD, kỷ lục được thiết lập vào năm 2022.
Bên cạnh đó, theo Sở Giao dịch hàng hoá Việt Nam (MXV), trong các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới như CPTPP và EVFTA đều có những nội dung quan trọng về mở cửa thị trường, đặc biệt là thị trường nông sản. Đây là đòn bẩy giúp Việt Nam đẩy mạnh sản xuất và tiêu thụ hàng nông sản, hội nhập sâu rộng với các nền kinh tế lớn thế giới.
Yêu cầu đặt ra là phải thực hiện nghiêm chỉnh các quy định, rào cản kỹ thuật cũng như hệ thống vệ sinh an toàn thực phẩm và kiểm dịch thực vật khắt khe đã được cam kết trong các Hiệp định.
Nhìn một cách tích cực, đây là động lực để ngành nông sản Việt Nam có những thay đổi, cải tiến để theo kịp xu thế chung của các thị trường xuất khẩu lớn. Nếu làm tốt trong giai đoạn này, sẽ tạo tiền đề để duy trì vị thế xuất khẩu của Việt Nam, không chỉ về sản lượng, mà còn về chất lượng và quy mô của ngành. Đây là một nhân tố quan trọng có thể thúc đẩy sự phát triển thị trường nông sản Việt Nam theo hướng bền vững hơn, mở được nhiều cánh cửa thị trường khó tính như Nhật, Mỹ, EU... Tăng cường sức cạnh tranh của các sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam trên thị trường quốc tế.

Nguồn: VITIC/Baocongthuong