Giá than nhiệt lượng CV cao 6.000 của Nam Phi đã tăng lên mức 100 USD/tấn. Các báo giá được hỗ trợ bởi thông báo của Ấn Độ về việc tăng 10% chi tiêu tài chính để hỗ trợ các nhà sản xuất thép, xi măng và bất động sản, báo hiệu nhu cầu than Nam Phi có khả năng phục hồi.
Tại Trung Quốc, giá giao ngay cho than 5.500 NAR tại cảng Tần Hoàng Đảo là 106 USD/tấn. Giao dịch được nối lại vào ngày 05 tháng 02, nhưng hoạt động trên thị trường giao ngay vẫn ở mức thấp, vì kỳ nghỉ Tết Dương lịch kéo dài đến ngày 16 tháng 02. Tuy nhiên, một số người tham gia thị trường kỳ vọng giá sẽ tăng do dự báo thời tiết lạnh giá trong 10 ngày tới và hoạt động công nghiệp dần phục hồi.
Lượng hàng tồn kho tại 9 cảng lớn đã giảm xuống còn 25,58 triệu tấn (-0,38 triệu tấn).
Chính quyền Trung Quốc thông báo áp dụng mức thuế bổ sung 15% đối với than và LNG từ Mỹ, có hiệu lực từ ngày 10 tháng 2. Như vậy, thuế nhập khẩu than nhiệt từ Mỹ sẽ tăng từ 6% lên 21%.
Giá than 5.900 GAR của Indonesia giảm xuống còn 87,5 USD/tấn, giá 4.200 GAR cũng giảm xuống dưới 48 USD/tấn, sau khi nhu cầu trên thị trường giao ngay hạn chế do kỳ nghỉ lễ ở Trung Quốc và mức tiêu thụ thấp hơn. Lượng hàng tồn kho cao gây áp lực lên giá.
Chỉ số than CV cao 6.000 của Úc giảm xuống dưới 110 USD/tấn trong bối cảnh xu hướng giảm chung. Kỳ nghỉ lễ vẫn tiếp diễn ở nhiều nước châu Á, gây thêm áp lực lên thị trường giao ngay.
Chỉ số than luyện kim HCC của Úc vẫn ổn định ở mức 185-186 USD/tấn, hoạt động giao dịch hạn chế. Trong khi đó, thị trường vẫn dư cung, điều này có thể khiến giá giảm xuống dưới 180 USD/tấn trong những tuần tới. Tuy nhiên, mức thuế quan cao hơn ở Trung Quốc có thể hỗ trợ nhu cầu đối với vật liệu của Úc, vì thuế nhập khẩu than cốc của Trung Quốc từ Mỹ sẽ tăng vào ngày 10 tháng 2 từ mức 3% hiện tại lên 18% (khoảng 14-21 USD/tấn).
Tuy nhiên, than của Mỹ sẽ cạnh tranh với than của Úc ở các nước Châu Á - Thái Bình Dương khác (Nhật Bản, Malaysia, Hàn Quốc, Ấn Độ), nơi than có thể được chuyển hướng do thuế suất cao hơn ở Trung Quốc.