Năng lượng: Giá dầu giảm phiên thứ 2 liên tiếp do đồng USD tăng mạnh và số liệu chính phủ cho thấy tồn trữ dầu thô và xăng của Mỹ bất ngờ tăng.
Kết thúc phiên, dầu Brent kỳ hạn tháng 5/2024 giảm 16 US cent, tương đương 0,2%, xuống 86,09 USD/thùng; dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) kỳ hạn tháng 6/2024 giảm 22 US cent xuống 85,41 USD/thùng; dầu WTI kỳ hạn tháng 5/2024 giảm 27 US cent, tương đương 0,3%, xuống 81,35 USD/thùng. Cả dầu Brent và WTI đều chịu áp lực bán ra mạnh kể từ khi đạt mức cao nhất 4 tháng vào tuần trước.
Chỉ số đồng USD tăng phiên thứ 2 liên tiếp. Đồng USD tăng mạnh gây áp lực giá dầu bằng cách khiến dầu mua bằng đồng bạc xanh trở nên đắt hơn khi mua bằng tiền tệ khác, làm giảm nhu cầu dầu.
Các nhà phân tích cho biết tồn trữ dầu thô và xăng của Mỹ bất ngờ tăng vọt cũng làm tăng thêm áp lực lên giá dầu. Theo dữ liệu từ Cơ quan Thông tin Năng lượng (EIA), dự trữ dầu thô của Mỹ tăng 3,2 triệu thùng trong khi tồn kho xăng tăng 1,3 triệu thùng trong tuần kết thúc vào ngày 22 tháng 3.
Các nhà phân tích được Reuters thăm dò dự kiến tồn kho dầu thô sẽ giảm 1,3 triệu thùng và tồn kho xăng giảm 1,7 triệu thùng.
Dữ liệu EIA cho thấy nhu cầu xăng giảm tuần thứ hai liên tiếp xuống 8,7 triệu thùng/ngày (bpd), giảm từ 8,8 triệu thùng/ngày trong tuần trước.
Robert Yawger, giám đốc năng lượng tương lai của Mizuho cho biết: “Xét đến thực tế là về cơ bản chúng tôi chỉ sản xuất dầu thô để sản xuất xăng, đó là một diễn biến giảm giá”.
Ba nguồn tin của OPEC+ nói với Reuters trước cuộc họp của tổ chức này vào tuần tới rằng Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) và các đồng minh do Nga dẫn đầu, gọi chung là OPEC+, khó có thể thay đổi chính sách sản lượng dầu cho đến cuộc họp cấp bộ trưởng đầy đủ vào tháng 6.
OPEC+ trong tháng này đã đồng ý gia hạn cắt giảm sản lượng khoảng 2,2 triệu thùng/ngày đến cuối tháng 6, mặc dù Nga và Iraq đã phải nỗ lực nhiều hơn nữa để giải quyết tình trạng dư thừa sản lượng.
Một cuộc khảo sát của Reuters cho thấy những khó khăn đó đã đặt ra câu hỏi về khả năng của nhóm trong việc tuân thủ các mức cắt giảm đã thỏa thuận, với việc OPEC đã vượt mục tiêu 190.000 thùng/ngày trong tháng 2.
Alex Hodes, nhà phân tích năng lượng của StoneX, cho biết: “Việc cắt giảm sản lượng của OPEC+ đã làm dấy lên cuộc tranh luận về sản lượng, đặc biệt liên quan đến tình trạng sản xuất quá mức của Iraq trong hai tháng qua”. “Một điểm quan trọng khác là khả năng giảm sản lượng của Nga”. Ông nói thêm: “Việc theo dõi dòng dầu của Nga trong quý tới sẽ rất quan trọng đối với các nhà quan sát thị trường”.
Kim loại quý: Giá vàng tăng do các nhà đầu tư chờ đợi số liệu lạm phát của Mỹ - một chỉ báo quan trọng, sẽ công bố vào cuối tuần này, để có thể cung cấp thêm manh mối về lộ trình chính sách của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ.
Kết thúc phiên, vàng giao ngay tăng 0,5% lên 2.189,89 USD/ounce; vàng kỳ hạn tháng 4/2024 trên sàn New York tăng 0,6% lên 2.212,7 USD/ounce.
Gí bạc giao ngay trong phiên này tăng 0,6% lên 24,56 USD/ounce, bạch kim giảm 0,9% xuống 894,85 USD và palladium giảm 0,7% xuống 986,31 USD.
Chỉ số giá chi tiêu tiêu dùng cá nhân cốt lõi (PCE) của Mỹ sẽ được công bố vào ngày 29/3/2024. Chỉ số PCE trong tháng 1/2024 tăng 0,3%.
Alex Turro, chiến lược gia thị trường cấp cao của RJO Futures, cho biết: “Chúng ta sẽ phải xem liệu lạm phát trong nước của Mỹ có đủ yếu để tạo ra con đường rõ ràng cho việc giảm lãi suất trong những tháng tới hay không”.
Vàng đã đạt mức cao kỷ lục vào tuần trước sau khi Fed dự đoán sẽ có 3 lần cắt giảm lãi suất vào năm 2024 bất chấp chỉ số lạm phát cao gần đây. Các nhà giao dịch nhận thấy 70% cơ hội cắt giảm lãi suất vào tháng 6. Lãi suất hạ sẽ làm giảm chi phí cơ hội của việc nắm giữ vàng thỏi.
Nhà phân tích Giovanni Staunovo của UBS cho biết: “Các ngân hàng trung ương tiếp tục báo cáo hoạt động mua vàng đang diễn ra, do mong muốn đa dạng hóa dự trữ tiền tệ của họ. Điều này bù đắp cho sự suy yếu từ nhu cầu đầu tư, vốn tập trung nhiều hơn vào kỳ vọng cắt giảm lãi suất của Mỹ”.
Trong khi đó, nhập khẩu vàng của Ấn Độ, nước tiêu thụ kim loại quý lớn thứ hai thế giới, dự kiến sẽ giảm hơn 90% trong tháng 3 so với tháng trước, do các ngân hàng cắt giảm nhập khẩu sau khi giá cao kỷ lục ảnh hưởng đến nhu cầu.
Kim loại công nghiệp: Giá đồng giảm xuống mức thấp nhất 2 tuần khi các nhà đầu tư chờ đợi thêm thông tin chi tiết về kế hoạch cắt giảm sản lượng của các nhà luyện kim Trung Quốc.
Kết thúc phiên, đồng giao sau 3 tháng trên sàn London giảm 0,1% xuống 8.853,5 USD/tấn. Đầu phiên, có lúc giá giảm xuống 8.776 USD/tấn – thấp nhất kể từ ngày 13/3/2024.
Giá đồng trên sàn LME đã tăng lên mức cao nhất 11 tháng (9.164,5 USD/tấn) trong phiên 18/3/2024, sau khi các nhà luyện kim hàng đầu Trung Quốc công bố kế hoạch cắt giảm sản lượng chung nhưng không cung cấp chi tiết về mức độ hoặc thời gian của bất kỳ đợt cắt giảm nào.
Dan Smith, người đứng đầu bộ phận nghiên cứu tại Amalgamated Metal Trading cho biết: “Sự phục hồi của đồng sau kế hoạch cắt giảm sản lượng của các nhà luyện kim Trung Quốc là do hoạt động mua quá mứcở mức quá mua”.
Các nguồn tin trong ngành cho biết, các nhà luyện kim Trung Quốc sẽ có một cuộc họp khác vào thứ Năm ngày 28 tháng 3 về kế hoạch tiến hành bảo trì và giảm công suất để giảm thua lỗ thua lỗ trước tình trạng thiếu tinh quặng đồng.
Thêm vào sự không chắc chắn về việc cắt giảm sản lượng luyện kim, một nhà nghiên cứu được nhà nước hậu thuẫn cho biết sản lượng đồng từ Trung Quốc dự kiến sẽ tăng 3% trong năm nay.
Cũng làm giảm nhiệt tình của các nhà đầu cơ là lượng tồn kho đồng tăng mạnh theo mùa ở Trung Quốc.
Đồng không xa giá trị hợp lý, vẫn được hỗ trợ bởi các yếu tố cơ bản dài hạn vẫn vững mạnh, nâng cao triển vọng tăng giá hơn nữa trong năm nay, Smith nói thêm, trích dẫn dữ liệu cho thấy lợi nhuận công nghiệp Trung Quốc tăng.
Ông nói thêm: “Các quỹ đang quay trở lại với hàng hóa như một ý tưởng chung, điều này luôn hữu ích. Giá cả và khối lượng giao dịch vàng và bitcoin gần mức cao kỷ lục là dấu hiệu chung cho thấy các nhà đầu tư còn rất nhiều tiền để tìm kiếm cơ hội mua”.
Trong số các kim loại cơ bản khác, giá kẽm giao sau 3 tháng trên sàn London chạm mức thấp nhất gần 4 tuần do nhu cầu thép yếu gây áp lực giá các nguyên liệu thép.
Giá kẽm giao sau 3 tháng trên sàn London giảm 1% xuống 2.440 USD/tấn, sau khi chạm 2.409 USD/tấn – thấp nhất kể từ ngày 1/3/2024.
Giá nhôm giảm 0,2% xuống 2.298 USD/tấn, niken giảm 0,1% xuống 16.620 USD, chì giảm0,7% xuống 2.006 USD và thiếc tăng 0,3% ở mức 27.535 USD.
Giá quặng sắt trên sàn Đại Liên giảm xuống mức thấp nhất hơn 1 tuần do lo ngại về nhu cầu tại nước tiêu thụ hàng đầu thế giới – Trung Quốc – trong bối cảnh thiếu các biện pháp kích thích quan trọng để thúc đẩy tiêu thụ.
Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 5/2024 trên sàn Đại Liên giảm 3,53% xuống 805,5 CNY (111,43 USD)/tấn – thấp nhất kể từ ngày 19/3/2024. Quặng sắt kỳ hạn tháng 4/2024 trên sàn Singapore giảm 2,1% xuống 101,95 USD/tấn – thấp nhất kể từ ngày 18/3/2024.
Giá nguyên liệu giảm và nhu cầu yếu cũng khiến giá hầu hết các loại thép trên Sàn giao dịch tương lai Thượng Hải giảm. Theo đó, giá thép cây giảm 1,97%, thép cuộn cán nóng giảm 1,72%, thép cuộn giảm 1,76%, trong khi đó thép không gỉ tăng 0,45%.
Cheng Peng, nhà phân tích tại Sinosteel Futures có trụ sở tại Bắc Kinh, cho biết: “Giá thép yếu và tỷ suất lợi nhuận thép thấp, cùng với lượng quặng xuất khẩu cao đã kìm hãm nhu cầu và giá quặng”.
Các nhà phân tích tại công ty tư vấn Mysteel hôm thứ Ba cho biết sản lượng kim loại nóng của Trung Quốc trung bình hàng ngày trong tháng 4 dự kiến ở mức từ 2,25 triệu đến 2,26 triệu tấn, thấp hơn nhiều so với mức 2,45 triệu tấn cùng kỳ năm trước.
Các nhà phân tích tại Huatai Futures cho biết áp lực lên giá quặng từ phía cung vẫn tồn tại trong ngắn hạn do nguồn cung cả quặng nhập khẩu và quặng nội địa đều phục hồi trong tuần này. Họ cho biết: “Ngoài ra, dự đoánsẽ có thêm nhiều chuyến hàng từ Australia và Brazil khi gần đến cuối quý này”.
Tuy nhiên, vẫn có yếu tố ngăn giá thép giảm mạnh. Dữ liệu chính thức cho thấy hôm thứ Tư cho thấy lợi nhuận tại các công ty công nghiệp của Trung Quốc đã tăng 10,2% trong hai tháng đầu năm so với cùng kỳ năm ngoái, sau khi lợi nhuận giảm 2,3% trong cả năm 2023.
Nông sản: Giá ngô và đậu tương Mỹ đều giảm do hoạt động bán chốt lời trước khi Bộ Nông nghiệp Mỹ công bố báo cáo cập nhật về cung – cầu ngũ cốc. Trong khi đó, giá lúa mì tăng mặc dù một lượng lớn lúa mì giá rẻ từ Nga đang xuất hiện trên thị trường thế giới. Dự kiến Nga sẽ có vụ thu hoạch lớn thứ ba liên tiếp trong năm nay và xuất khẩu trong tháng 3 có thể lập kỷ lục mới về, là 5 triệu tấn.
Các nhà phân tích thị trường dự đoán diện tích trồng ngô và lúa mì của Mỹ sẽ giảm so với năm 2023 và diện tích trồng đậu tương sẽ tăng, trong khi dự trữ của cả ba loại ngũ cốc tính đến ngày 1/3 đều cao hơn so với một năm trước.
Trên sàn Chicago (CBOT), giá ngô kỳ hạn tháng 5/204 giảm 5-3/4 US cent xuống 4,26-3/4 USD/bushel; đậu tương kỳ hạn tháng 5/2024 giảm 6-1/2 US cent xuống 11,92-1/2 USD/bushel; lúa mì kỳ hạn tháng 5/2024 tăng 4 US cent lên 5,47-1/2 USD/bushel.
Giá đường trắng kỳ hạn tháng 5/2024 trên sàn London giảm 1,2% xuống 645,6 USD/tấn; đường thô kỳ hạn tháng 5/2024 trên sàn ICE giảm 0,2 US cent tương đương 0,9% xuống 22,19 US cent/lb.
Ngành mía đường Brazil báo cáo khối lượng nghiền ép mía trong nửa đầu tháng 3 cao hơn nhiều so với cùng thời điểm năm ngoái do có nhiều nhà máy hoạt động hơn, báo của tập đoàn công nghiệp Unica cho thấy.
Giá cà phê robusta trên sàn London tăng gần 3% lên mức cao nhất trong ít nhất 16 năm do nguồn cung tại các nước sản xuất hàng đầu sụt giảm.
Cà phê robusta kỳ hạn tháng 5/2024 trên sàn London tăng 94 USD tương đương 2,7% lên 3.559 USD/tấn, sau khi đạt mức cao đỉnh điểm 3.599 USD/tấn – cao nhất kể từ năm 2008. Cà phê arabica kỳ hạn tháng 5/2024 trên sàn ICE thay đổi nhẹ ở mức 1,8805 USD/lb.
Tại Việt Nam, nước sản xuất robusta hàng đầu thế giới, người trồng cà phê và các thương nhân địa phương vẫn chưa vội bán mà đặt cược vào mức giá thậm chí còn cao hơn, nữa trong khi lượng cà phê conilon (robusta) sẵn có ở Brazil từ nay đến khi vụ thu hoạch tiếp theo bắt đầu vào tháng Tư là rất ít.
Nhà sản xuất cà phê Ý Lavazza đã báo cáo lợi nhuận ròng năm 2023 giảm 14,9% do giá cà phê tăng mạnh và quyết định hạn chế tăng giá.
Giá cao su tại Nhật Bản tăng phiên thứ 2 liên tiếp lên mức cao nhất 3 ngày, trong bối cảnh thị trường chứng khoán nội địa tăng mạnh và đồng JPY suy yếu, cùng với đó là niềm tin người tiêu dùng tại Mỹ tăng đã thúc đẩy tâm lý các nhà đầu tư.
Giá cao su kỳ hạn tháng 9/2024 trên sàn Osaka (OSE) tăng 1,9 JPY tương đương 0,6% lên 321,2 JPY (2,12 USD)/kg – cao nhất kể từ ngày 25/3/2024.
Trong khi đó, giá cao su kỳ hạn tháng 9/2024 trên sàn Thượng Hải giảm 280 CNY xuống 14.470 CNY (2.001,83 USD)/tấn. Cao su kỳ hạn tháng 4/2024 trên sàn Singapore giảm 1,78% xuống 159,7 US cent/kg.
Bộ trưởng tài chính Nhật Bản hôm thứ Tư đã đưa ra cảnh báo mạnh mẽ nhất từ trước đến nay về sự suy yếu của đồng yên khi giảm xuống mức thấp nhất trong 34 năm so với đồng đô la, nói rằng chính phủcó thể thực hiện “các bước quyết định”, ngôn ngữ đã từng được sử dụng trước những lần can thiệp trước đây.
Đơn đặt hàng cho hàng hóa sản xuất lâu bền ở Mỹ đã tăng nhiều hơn dự kiến trong tháng 2. Conference Board cho biết chỉ số niềm tin người tiêu dùng ở Mỹ ít thay đổi, từ 104,8 trong tháng 2 lên 104,7 trong tháng 3. ANZ cho biết trong báo cáo nghiên cứu của mình: “Dữ liệu này phù hợp với những nhận định đầu năm 2024 về người tiêu dùng chi tiêu thận trọng hơn”.
Cơ quan khí tượng của nhà sản xuất cao su hàng đầu thế giới - Thái Lan - cảnh báo điều kiện thời tiết khắc nghiệt ở thượng nguồn Thái Lan từ ngày 26-27/3, có khả năng gây thiệt hại mùa màng.
Trung Quốc đã khởi xướng các thủ tục giải quyết tranh chấp chống lại Mỹ tại Tổ chức Thương mại Thế giới để bảo vệ lợi ích của mình trong ngành công nghiệp xe điện.
Giá hàng hóa thế giới

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

81,90

+0,55

+0,68%

Dầu Brent

USD/thùng

86,52

+0,43

+0,50%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

269,82

+1,35

+0,50%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

1,72

+0,00

+0,12%

Dầu đốt

US cent/gallon

260,13

+0,27

+0,10%

Vàng (Comex)

USD/ounce

2.215,70

+3,00

+0,14%

Vàng giao ngay

USD/ounce

2.194,92

+0,13

+0,01%

Bạc (Comex)

USD/ounce

24,79

+0,03

+0,13%

Bạch kim giao ngay

USD/ounce

902,00

+2,12

+0,24%

Đồng (Comex)

US cent/lb

402,95

+2,95

+0,74%

Đồng (LME)

USD/tấn

8.849,50

-12,50

-0,14%

Nhôm (LME)

USD/tấn

2.298,50

-5,00

-0,22%

Kẽm (LME)

USD/tấn

2.437,00

-5,00

-0,20%

Thiếc (LME)

USD/tấn

27.524,00

+78,00

+0,28%

Ngô (CBOT)

US cent/bushel

426,75

0,00

0,00%

Lúa mì (CBOT)

US cent/bushel

548,25

+0,75

+0,14%

Lúa mạch (CBOT)

US cent/bushel

356,00

+1,00

+0,28%

Gạo thô (CBOT)

USD/cwt

16,59

0,00

0,00%

Đậu tương (CBOT)

US cent/bushel

1.190,25

-2,25

-0,19%

Khô đậu tương (CBOT)

USD/tấn

337,30

-1,70

-0,50%

Dầu đậu tương (CBOT)

US cent/lb

47,83

+0,16

+0,34%

Hạt cải (ICE)

CAD/tấn

626,10

-1,10

-0,18%

Cacao (ICE)

USD/tấn

9.843,00

+221,00

+2,30%

Cà phê (ICE)

US cent/lb

190,65

+2,60

+1,38%

Đường thô (ICE)

US cent/lb

22,19

-0,20

-0,89%

Nước cam cô đặc đông lạnh (ICE)

US cent/lb

370,30

-2,80

-0,75%

Bông (ICE)

US cent/lb

91,19

+0,42

+0,46%

Lông cừu (ASX)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ (CME)

USD/1000 board feet

--

--

--

Cao su Singapore

US cent/kg

164,80

+2,10

+1,29%

Ethanol (CME)

USD/gallon

2,16

0,00

0,00%