Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng 1 USD/thùng do thị trường ngũ cốc Mỹ thắt chặt và đồng USD giảm sau bình luận của Chủ tịch Fed.
Giá ngô và đậu tương của Mỹ tăng lên mức cao nhất trong nhiều tháng, làm tăng dự đoán rằng tình trạng thiếu hụt cây trồng trên toàn cầu có thể làm giảm quá trình pha trộn nhiên liệu sinh học và tăng nhu cầu dầu.
Hợp đồng dầu Brent kỳ hạn tương lai tăng 1,22 USD, tương đương 1,6%, lên mức 77,12 USD/thùng, trong khi dầu thô ngọt nhẹ Mỹ kỳ hạn tương lai (WTI) tăng 1,34 USD, tương đương 1,9%, lên mức 72,53 USD/thùng. Trong phiên, có thời điểm cả hai hợp đồng đều đạt mức cao nhất 2 tuần.
Các thương nhân cho biết giá ngô kỳ hạn trên Sàn Thương mại Chicago (CBOT) đã tăng 5,2% vào thứ Tư sau khi một báo cáo của chính phủ cho thấy phần lớn vụ mùa của Mỹ đang bị ảnh hưởng bởi điều kiện khô hạn khi gần đến các giai đoạn phát triển quan trọng. Giá đậu tương kỳ hạn tháng 11 của CBOT đạt mức cao nhất kể từ ngày 9 tháng 3.
Thị trường ngũ cốc đang bắt đầu nhận ra thực tế là hàng tồn kho đang ở mức thấp và sẽ chỉ còn là vấn đề thời gian trước khi thị trường dầu bắt đầu nhận ra thực tế đó.
Một yếu tố khác cũng hỗ trợ giá dầu là đồng USD giảm so với rổ các đồng tiền chủ chốt sau khi Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Jerome Powell gợi ý rằng ngân hàng trung ương sắp đạt được mục tiêu chính sách. Đồng bạc xanh rẻ hơn làm cho dầu được định giá bằng USD trở nên hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư nắm giữ các loại tiền tệ khác, làm tăng nhu cầu.
Dự trữ dầu thô của Mỹ giảm trong tuần trước, trong khi dự trữ xăng tăng, theo các nguồn tin thị trường trích dẫn số liệu của Viện Dầu khí Mỹ hôm thứ Tư. Dự trữ dầu thô đã giảm khoảng 1,2 triệu thùng trong tuần kết thúc vào ngày 16 tháng 6. Dữ liệu tồn kho dầu chính thức của Mỹ từ Cơ quan Quản lý Thông tin Năng lượng sẽ được công bố vào thứ Năm, sau khi bị trì hoãn một ngày vào ngày lễ thứ Hai của tháng Sáu.
Mức tăng giá dầu đã bị hạn chế sau khi dữ liệu hôm thứ Tư cho thấy lạm phát của Anh trái với kỳ vọng chậm lại. Lạm phát tiếp tục giữ ở mức 8,7% trong tháng Năm, thúc đẩy kỳ vọng Ngân hàng Trung ương Anh sẽ tăng lãi suất thêm nửa điểm phần trăm vào thứ Năm.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng hồi phục chút ít vào thứ Tư, được hỗ trợ bởi sự giảm giá của đồng USD, mặc dù lợi suất trái phiếu tăng sau bài phát biểu trước quốc hội của Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ Jerome Powell giữ giá vàng thỏi quanh mức thấp nhất 3 tháng.
Kết thúc phiên giao dịch, giá vàng giao ngay vững ở mức 1.936,96 USD/ounce, sau khi giảm tới 0,9% trước đó. Giá vàng Mỹ kỳ hạn tháng 8 giảm 0,1% ở mức 1.944,9 USD.
Trong bài phát biểu tại Đồi Capitol, ông Powell cho biết các đợt tăng lãi suất tiếp theo là "một dự đoán khá tốt" về hướng đi của ngân hàng trung ương nếu nền kinh tế tiếp tục đi theo hướng hiện tại, vì cuộc chiến chống lạm phát vẫn "còn một chặng đường dài phía trước".
Jim Wyckoff, nhà phân tích cấp cao của Kitco, cho biết không có yếu tố chính nào gây áp lực lên thị trường vàng, mà là sự kết hợp giữa lợi suất tăng và áp lực bán kỹ thuật.
Lợi suất trái phiếu kho bạc kỳ hạn 10 năm của Mỹ tăng sau khi ông Powell bắt đầu điều trần, làm tăng chi phí cơ hội của việc nắm giữ vàng thỏi không mang lại lợi tức.
Nhà phân tích Wyckoff nói thêm rằng nếu ông Powell thậm chí còn lạc quan hơn một chút về triển vọng tăng trưởng kinh tế của Mỹ trong tương lai hoặc tỏ ra mâu thuẫn với các đợt tăng lãi suất trong tương lai, thì điều đó có thể làm suy yếu chỉ số đồng USD, từ đó hỗ trợ vàng.
Chỉ số USD giảm 0,5% sau khi phiên điều trần của Powell bắt đầu, khiến vàng trở nên rẻ hơn đối với những người nắm giữ các tiền tệ khác.
Các nhà giao dịch hiện đang dự đoán 79% khả năng Fed sẽ tăng lãi suất 25 điểm cơ bản vào tháng 7, và sẽ không có đợt cắt giảm lãi suất nào trong năm nay, theo công cụ Fedwatch của CME.
Daniel Ghali, chiến lược gia hàng hóa của TD Securities, cho biết giá vàng đã bị kéo xuống thấp hơn bởi hoạt động bán ra trên quy mô lớn đối với bạc, bạch kim và palladium, bất chấp sự yếu kém của đồng USD.
Giá bạc giao ngay phiên này giảm 1,6% xuống 22,81 USD/ounce, trong khi bạch kim giảm 1,5% xuống 947,83 USD, cả hai đều chạm mức thấp nhất trong ba tháng. Giá palladium giảm 2,3% xuống 1.347,89 USD.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng trên sàn London hồi phục do đồng USD yếu đi vào thứ Tư, mặc dù mức tăng bị hạn chế bởi sự lạc quan nhẹ về mức độ tăng nhu cầu ở Trung Quốc.
Giá đồng kỳ hạn 3 tháng trên Sàn giao dịch kim loại London (LME) tăng 0,5% lên 8.591,5 USD/tấn. Đồng USD đã giảm giá sau khi Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Jerome Powell nhận xét về cuộc chiến của ngân hàng trung ương nhằm giảm lạm phát, làm cho các kim loại định giá bằng USD trở nên hấp dẫn hơn đối với những người mua nắm giữ các loại tiền tệ khác.
Tuy nhiên, sự lạc quan trước đây về nhu cầu của Trung Quốc dường như đã giảm đi phần nào.
Amelia Xiao Fu, trưởng bộ phận chiến lược thị trường hàng hóa tại BOCI Global Commodities,
cho biết: "Tuần trước, có rất nhiều tin tức về việc Trung Quốc sẽ có nhiều gói kích thích hơn. Tuy nhiên, cảm nhận của chúng tôi là cho dù đó là gói kích thích tiền tệ, bất động sản hay cơ sở hạ tầng, thì bất kỳ gói kích thích nào cũng có nhiều khả năng chỉ ở mức vừa phải".
Bà nói thêm rằng đồng vẫn có thể tìm thấy sự hỗ trợ từ sự tăng trưởng trong các lĩnh vực liên quan đến quá trình chuyển đổi năng lượng, chẳng hạn như xe điện, trạm sạc và lưu trữ năng lượng tái tạo, điều này đã bù đắp cho sự yếu kém ở những nơi khác.
Giá đồng trên sàn Thượng Hải đạt mức cao nhất 2 tháng sau khi giá đồng trên thị trường giao ngay Trung Quốc tăng lên mức cao nhất trong 8 tháng, một phần do đồng nhân dân tệ yếu đi. Các thị trường Trung Quốc đóng cửa vào Thứ Năm và Thứ Sáu trong Lễ hội Thuyền rồng.
Dự trữ đồng trên sàn LME giảm 1.600 tấn xuống mức thấp nhất trong một tuần là 84.725.
Trong số các kim loại khác, giá nhôm trên sàn LME tăng 0,1% lên 2.232 USD, đối mặt với ngưỡng kháng cự từ đường trung bình động 21 ngày là 2.240 USD. Tổng dự trữ nhôm của sàn LME giảm 4.750 tấn xuống 550.925 tấn, mức thấp nhất kể từ giữa tháng Tư.
Trong khi đó, kẽm tăng 2,6% lên 2.420 USD, thiếc tăng 2,2% lên 27.425 USD và niken giảm 3,4% xuống 21.280 USD trong khi chì tăng 1,1% lên 2.167 USD sau khi chạm mức cao nhất kể từ ngày 14 tháng 4 ở mức 2.176 USD.
Giá sắt thé tiếp tục giảm trong bối cảnh các thương nhân đang xem xét liệu nhà sản xuất thép hàng đầu Trung Quốc có thể hỗ trợ bao nhiêu cho sự phục hồi kinh tế đang chững lại của nước này.
Hợp đồng quặng sắt kỳ hạn tháng 9 trên Sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên của Trung Quốc - được giao dịch nhiều nhất - kết thúc giao dịch giảm 1% xuống 797,5 NDT (110,86 USD)/tấn. Trên Sàn giao dịch Singapore, hợp đồng quặng sắt giao tháng 7 giảm 2% xuống 110,75 USD/tấn.
Giá thép cây trên Sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải giảm 1,6%, thép cuộn cán nóng giảm 1,4%, dây thép cuộn giảm 1,5%, trong khi thép không gỉ tăng 0,1%.
Trong phiên thứ Ba, quặng sắt trên cả sàn Đại Liên và Singapore đều giảm khỏi mức cao nhất hơn hai tháng do việc lãi suất cơ bản cho vay của Trung Quốc cắt giảm khiêm tốn làm thất vọng các nhà giao dịch – những người hy vọng có được sự hỗ trợ rộng rãi hơn, đặc biệt là đối với lĩnh vực bất động sản yếu kém.
Người đứng đầu Ngân hàng Quốc gia Úc cho biết: “Mức cắt giảm thấp hơn dự kiến của Trung Quốc, kết hợp với việc không có thông báo chắc chắn nào về gói kích thích lớn sau cuộc họp của Hội đồng Nhà nước vào thứ Sáu tuần trước, bất chấp nhiều sự thổi phồng của giới truyền thông, đã khiến nhiều người tự hỏi Trung Quốc sẵn sàng kích thích nền kinh tế của mình đến mức nào”.
Sản lượng thép tại Trung Quốc dự kiến sẽ giảm hơn nữa để phù hợp với tình hình yếu kém trong lĩnh vực bất động sản, ANZ Research cho biết trong báo cáo triển vọng hàng quý. "Điều này sẽ ảnh hưởng đến nhu cầu quặng sắt, ngay khi sự gián đoạn nguồn cung giảm bớt," báo cáo viết.
Khảo sát mới nhất của công ty tư vấn Mysteel cho thấy tổng khối lượng quặng sắt được vận chuyển từ 19 cảng và 16 công ty khai thác ở Úc và Brazil đã tăng sau khi sụt giảm vào tuần trước.
Trên thị trường nông sản, giá ngô, đậu tương và lúa mì Mỹ kỳ hạn tương lai tăng lên mức cao nhất nhiều tháng do lo ngại về tình trạng thiếu hụt cây trồng trên toàn cầu do thời tiết bất lợi ở các khu vực sản xuất chính.
“Với tình hình xung quanh Vành đai ngô, có vẻ như rất khó có thể đạt được ước tính sản lượng của USDA,” Công ty môi giới hàng hóa Summit cho biết trong một báo cáo nghiên cứu. “Nếu thời tiết tiếp tục khô hạn, thị trường này sẽ khó có thể làm được gì ngoài việc tăng giá.”
Trên Sàn thương mại Chicago, giá ngô kỳ hạn tháng 12, hiện đang trồng trồng trên các cánh đồng khắp nước Mỹ, tăng 31-1/4 cent/bushel lên 6,28-3/4 USD. Hợp đồng có lúc đạt mức cao nhất kể từ ngày 1 tháng 11 trong phiên. Giá đậu tương kỳ hạn tháng 11 của sàn CBOT tăng 34-1/4 cent lên 13,77 USD/bushel, sau khi có lúc đạt 13,78 USD, mức cao nhất đối với hợp đồng niên vụ mới kể từ ngày 8/3. Giá lúa mì đỏ mềm vụ đông kỳ hạn tháng 9 tăng 39-1/2 cent lên 7,48-1/4 USD/bushel.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 7 giảm 0,34 cent, tương đương 1,3%, xuống 25,88 cent/lb; dường trắng kỳ hạn tháng 8 giảm 7,80 USD, tương đương 1,1%, xuống 693,40 USD/tấn.
Các đại lý cho biết vụ thu hoạch ở Trung-Nam Brazil tiếp tục đạt tiến triển tốt, giúp giữ giá.
Không có dự báo về mưa ở vành đai trồng mía hàng đầu ở Brazil cho đến ít nhất là ngày 5 tháng 7.
Copersucar, nhà buôn đường và ethanol lớn nhất thế giới, dự kiến doanh số bán đường của họ trong niên vụ 2023/24 sẽ tăng 27% so với niên vụ trước, nhờ bước nhảy vọt trong quy trình ép mía và phân bổ nguyên liệu thô nhiều hơn để sản xuất chất làm ngọt.
Giá cà phê robusta kỳ hạn tương lai trên Sàn giao dịch Liên lục địa (ICE) giảm phiên thứ hai liên tiếp, trong khi cà phê arabica giảm xuống mức 2- 1/2 tháng thấp.
Hợp đồng cà phê robusta kỳ hạn tháng 9 giảm 44 USD, tương đương 1,6%, xuống 2.726 USD/tấn; cà phê arabica giao tháng 9 giảm 3,85 cent, tương đương 2,2%, xuống 1,7225 USD/lb.
Các đại lý cho biết vụ thu hoạch tại nhà sản xuất hàng đầu thế giới – Brazil - đang có tiến triển tốt, gây áp lực giảm giá. Hợp tác xã Cooxupe của Brazil cho biết tốc độ thu hoạch tiếp tục tốt.
Giá cao su kỳ hạn trên thị trường Nhật Bản giảm xuống mức thấp nhất một tháng do lo ngại về tình trạng cung - cầu mờ nhạt lấn át các yếu tố cơ bản mạnh mẽ, trong khi thị trường chờ đợi thêm thông tin chi tiết về gói kích thích kinh tế của Trung Quốc và các động thái tiếp theo từ Cục Dự trữ Liên bang Mỹ.
Hợp đồng cao su giao tháng 11 của Sở giao dịch Osaka kết thúc phiên giảm 2,0 yên, tương đương 1%, xuống 206,5 yên (1,45 USD)/kg, kéo dài mức giảm phiên thứ ba liên tiếp. Hợp đồng cao su giao tháng 9 trên sàn giao dịch Thượng Hải giảm 10 CNY xuống còn 12.035 CNY (1.672,67 USD)/tấn. Hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 7 trên nền tảng SICOM của Sở giao dịch chứng khoán Singapore 7 không đổi ở mức 132,8 US cent/kg.
Nhu cầu yếu của Trung Quốc đã kéo giá cao su kỳ hạn toàn cầu đi xuống và giá hiện phụ thuộc vào việc liệu nguồn cung nguyên liệu thô tại nước sản xuất hàng đầu Thái Lan có bị ảnh hưởng bởi El Nino hay không, một thương nhân tại Singapore cho biết.
Giá hàng hóa thế giới:

 

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

72,49

-0,04

-0,06%

Dầu Brent

USD/thùng

77,12

+1,22

+1,61%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

66.510,00

+210,00

+0,32%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,59

-0,01

-0,42%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

261,37

-1,04

-0,40%

Dầu đốt

US cent/gallon

256,78

+0,36

+0,14%

Dầu khí

USD/tấn

736,50

+25,00

+3,51%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

78.000,00

0,00

0,00%

Vàng New York

USD/ounce

1.944,50

-0,40

-0,02%

Vàng TOCOM

JPY/g

8.809,00

+3,00

+0,03%

Bạc New York

USD/ounce

22,94

-0,08

-0,34%

Bạc TOCOM

JPY/g

104,30

-1,00

-0,95%

Bạch kim

USD/ounce

947,31

+1,25

+0,13%

Palađi

USD/ounce

1.351,84

-2,60

-0,19%

Đồng New York

US cent/lb

390,55

-0,50

-0,13%

Đồng LME

USD/tấn

8.602,50

+54,50

+0,64%

Nhôm LME

USD/tấn

2.230,00

-11,00

-0,49%

Kẽm LME

USD/tấn

2.416,00

+56,50

+2,39%

Thiếc LME

USD/tấn

27.311,00

+464,00

+1,73%

Ngô

US cent/bushel

628,75

+31,25

+5,23%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

748,25

+39,50

+5,57%

Lúa mạch

US cent/bushel

397,75

+0,75

+0,19%

Gạo thô

USD/cwt

15,61

-0,03

-0,19%

Đậu tương

US cent/bushel

1.377,00

+34,25

+2,55%

Khô đậu tương

USD/tấn

432,60

+30,00

+7,45%

Dầu đậu tương

US cent/lb

53,66

-4,00

-6,94%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

720,60

+5,80

+0,81%

Cacao Mỹ

USD/tấn

3.237,00

+26,00

+0,81%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

172,25

-3,85

-2,19%

Đường thô

US cent/lb

25,85

-0,18

-0,69%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

257,55

-10,00

-3,74%

Bông

US cent/lb

80,52

-0,18

-0,22%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

--

--

--

Cao su TOCOM

JPY/kg

131,30

-0,40

-0,30%

Ethanol CME

USD/gallon

2,16

0,00

0,00%

 

Nguồn: Vinanet/VITIC (Theo Reuters, Bloomberg)