Năng lượng: Giá dầu tăng trong tuần
Phiên cuối tuần, giá dầu giảm khoảng 1% sau khi Trung Quốc – nhà nhập khẩu dầu thô hàng đầu thế giới – tăng cường hoạt động phong tỏa do đại dịch COVID-19. Tuy nhiên, tính chung cả tuần, giá dầu tăng khoảng 3%.
Kết thúc phhieen này, giá giá dầu Brent giảm 1,19 USD, tương đương 1,2% xuống 95,77 USD/thùng. Dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) của Mỹ giảm 1,18 USD, tương đương 1,3% xuống 87,90 USD. Giá xăng kỳ hạn ủa Mỹ giảm khoảng 3%, trong khi dầu diesel kỳ hạn của Mỹ tăng khoảng 5% lên mức cao nhất kể từ giữa tháng 6.
Tuy nhiên, tính chung cả tuần, giá dầu Brent tăng khoảng 2% và WTI tăng khoảng 3% do lo ngại về nguồn cung và dữ liệu kinh tế của Mỹ mạnh mẽ đáng ngạc nhiên.
Uỷ ban Y tế Quốc gia Trung Quốc ngày 27/10 cho biết, các thành phố của nước này đang tăng cường kiểm soát dịch COVID-1, phong toả các toà nhà và nhiều quận sau khi Trung Quốc ghi nhận 1,506 ca nhiễm mới, tăng từ mức 1,264 ca nhiễm mới/ngày trước đó.
Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) dự báo tăng trưởng kinh tế Trung Quốc sẽ chậm lại còn 3,2% trong năm nay, giảm 1,2 điểm phần trăm so với dự báo hồi tháng 4/2022, sau khi tăng 8,1% trong năm 2021.
Nhà phân tích Stephen Brennock của PVM Oil cho biết: “Thật khó để lạc quan rằng Trung Quốc sẽ hồi phục việc mua dầu thô trong bối cảnh không chắc chắn về chính sách không COVID của nước này”.
PetroChina cho biết nhu cầu về nhiên liệu tinh chế và khí đốt của Trung Quốc trong quý IV năm nay dự kiến sẽ tăng so với cùng kỳ năm ngoái, song song với sự phục hồi kinh tế được dự báo khi Bắc Kinh tung ra nhiều chính sách kích thích hơn.
Mặc dù vậy, sức mạnh kinh tế ở hai nền kinh tế lớn đã ngăn giá dầu giảm mạnh.
Trong khi đó, tăng trưởng GDP tại Mỹ khá ấn tượng trong quý III, chứng tỏ khả năng phục hồi của nền kinh tế lớn nhất thế giới. Đức- nền kinh tế lớn nhất châu Âu cũng tăng trưởng bất ngờ trong quý III vừa qua, thay vì rơi vào suy thoái như đòn đoán, bất chấp lạm phát cao và lo ngại về nguồn cung năng lượng bị thắt chặt trước lệnh cấm nhập khẩu dầu thô Nga.
Các nhà phân tích của ANZ Research cho biết: “Thị trường vẫn cảnh giác về thời hạn sắp tới đối với việc mua dầu thô Nga của châu Âu trước khi lệnh trừng phạt có hiệu lực vào ngày 5 tháng 12”.
Dữ liệu từ công ty dầu khi Baker Hughes cho thấy, số giàn khoan dầu tại Mỹ đã giảm trong tuần này, nhưng ghi nhận tháng tăng đầu tiên kể từ tháng 7/2022 trong tháng Mười.
Kim loại quý: Giá vàng giảm trong tuần
Giá vàng giảm hơn 1% trong phiên vừa cuối tuần do USD và lợi suất trái phiếu Mỹ tăng sau khi dữ liệu cho thấy áp lực lạm phát cơ bản vẫn ở mức cao, củng cố kỳ vọng Fed sẽ tăng mạnh lãi suất vào tuần tới.
Kết thúc phiên này, giá vàng giao ngay giảm 1,3% xuống 1.641,30 USD/ounce; giá vàng kỳ hạn tháng 12 giảm 1,3% xuống 1.644,8 USD.
Bộ Thương mại cho biết chi tiêu của người tiêu dùng (PCE), chiếm hơn 2/3 hoạt động kinh tế của Mỹ, đã tăng 0,6% trong tháng trước.
Tai Wong, một nhà giao dịch cấp cao của Heraeus Precious Metals cho biết: “Có lo ngại rằng PCE cốt lõi tăng 0,5% so với tháng trước hoặc 6% so với cùng kỳ năm trước sẽ khiến Fed tương đối quyết và việc tăng lãi suất chậm lại sẽ đến muộn hơn là sớm.
Ông nói thêm, vàng đã gây một chút thất vọng trong tuần quado trái phiếu tăng giá mạnh và đồng đô la giảm - đáng lẽ vàng sẽ hướng tới 1.700 đô la.
Đồng USD đã tăng 0,3% so với các đối tác chủ chốtsau dữ liệu kinh tế của Mỹ, khiến vàng trở nên đắt hơn đối với những người nắm giữ tiền tệ khác. Lợi tức trái phiếu kho bạc Mỹ cũng tăng.
Fed được cho là sẽ tăng lãi suất thêm 75 điểm cơ bản tại cuộc họp chính sách vào ngày 1-2 tháng 11. Đối với tháng 12, các nhà giao dịch chủ yếu mong đợi mức tăng 50 điểm cơ bản. Vàng rất nhạy cảm với việc tăng lãi suất của Mỹ, vì điều này làm tăng chi phí cơ hội của việc nắm giữ vàng thỏi không có năng suất, đồng thời thúc đẩy đồng đô la.
Các nhà phân tích của Commerzbank cho biết trong một lưu ý: “Một đợt tăng lãi suất rõ rệt nữa lên 75 điểm cơ bản được dự đoán sau khi lạm phát của Mỹ tiếp tục ở mức cao trong tháng 9”. "Điều đó nói rằng, nếu các ngân hàng trung ương gợi ý rằng họ sẽ tăng lãi suất chủ chốt với tốc độ ít mạnh mẽ hơn trong tương lai - ví dụ như để đối phó với nền kinh tế đang hạ nhiệt - giá vàng có thể sẽ có một chút động lực tăng."
Về những kim loại quý khác, giá bạc giao ngay trong phiên cuối tuần giảm 2,1% xuống 19,17 USD/ounce, bạch kim giảm 1,8% xuống 942,13 USD, trong khi palladium giảm 2,4% xuống 1,895,46 USD.
Kim loại công nghiệp: Giá đồng giảm mạnh, nhôm và nickel vững trong tuần
Giá đồng giảm trong phiên cuối tuần sau khi các nhà đầu tư lạc quan từ bỏ những vị thế mua kỳ hạn dài. Đồng USD mạnh lên và Trung Quốc gia tăng các biện pháp chống Covid-19 càng gây áp lực giảm giá. Giá đồng kết thúc phiên giảm 2,8% xuống 7.550,50 USD/tấn, sau khi đã chạm mức cao nhất gần tuần vào thứ Tư.
Tuy nhiên, giá chì đã tăng vọt sau khi chỉ số Bloomberg Commodity cho biết họ sẽ đưa kim loại này vào danh sách những mặt hàng tham chiếu giá của mình.
Giá chì giao sau 3 tháng trên Sàn giao dịch kim loại London đã tăng tới 8,3% sau khi Bloomberg công bố bổ sung chì vào chỉ số hàng hóa của mình vào năm 2023. Chì đã tăng vọt lên 1.987 USD/tấn, kết thúc phiên vẫn tăng 6,5%.
Đồng và các kim loại cơ bản khác, giá giảm sau khi dữ liệu chi tiêu tiêu dùng mạnh mẽ của Mỹ khiến Cục Dự trữ Liên bang tiếp tục cho thấy Fed sẽ thực hiện một đợt tăng mạnh lãi suất nữa.
Phiên cuối tuần, giá nhôm giảm 2,9% xuống 2.220,50 USD/tấn, niken giảm 1,5% xuống 22.055 USD, kẽm giảm 4,4% xuống 2.814 USD và thiếc giảm 4% xuống 17.940 USD.
Giá quặng sắt - nguyên liệu chính trong sản xuất thép - kỳ hạn tương lai giảm vào thứ Sáu, giảm xuống dưới 80 USD/tấn ở Singapore và cũng giảm ở Trung Quốc do triển vọng nhu cầu thép toàn cầu ảm đạm và áp lực từ phía cung.
Quặng sắt được giao dịch nhiều nhất – giao tháng 11 - trên Sàn giao dịch Singapore trong phiên có lúc giảm tới 3,6% xuống 78,80 USD/tấn, thấp nhất kể từ năm 2020. Kết thúc phiên, hợp đồng này vẫn giảm 2,2% xuống 79,90 USD, đã giảm hơn 50% so với đỉnh hồi tháng 4, là trên 160 USD.
Trên Sàn giao dịch Hàng hóa Đại Liên của Trung Quốc, hợp đồng giao dịch tháng 1 đã kết thúc phiên giảm giao dịch ban ngày giảm 4,9% xuống 624,50 nhân dân tệ (86,31 USD)/tấn, tính chung cả tuần giảm tuần thứ ba liên tiếp.
Trong khi đó, quặng sắt giao ngay giảm trong tuần qua xuống mức thấp nhất kể từ tháng 5 năm 2020, xuống dưới 90 USD/tấn, do tỷ suất lợi nhuận âm khiến các nhà máy thép Trung Quốc phải kiềm chế sản lượng.
Trên sàn Thượng Hải, giá thép cây giảm 2,8%, thép cuộn cán nóng và thép cuộn giảm lần lượt giảm 3% và 2,2%, thép không gỉ cũng giảm 2,9%.
Với nhu cầu thép toàn cầu suy yếu nền kinh tế Trung Quốc bị ảnh hưởng bởi các hạn chế chống COVID-19 và sự sụt giảm của lĩnh vực bất động sản, các nhà phân tích không nhận thấy sự phục hồi trong năm tới đối với thép và quặng sắt.
Quỹ Tiền tệ Quốc tế cho biết họ không mong đợi một giải pháp nhanh chóng đối với tình trạng yếu kém trên thị trường bất động sản ở Trung Quốc.
Nông sản: Giá đồng loạt giảm
Giá ngô giảm trong phiên 28/10 do lo ngại về việc doanh số xuất khẩu của Mỹ chậm lại, trong khi giá lúa mì kỳ hạn giảm do mưa có lợi cho các khu vực trồng trọt ở Đồng bằng phía nam của nước Mỹ. Đồng USD mạnh lên càng gây áp lực lên giá những nông sản này.
Các nhà phân tích cho biết đồng đô la mạnh hơn làm tăng thêm lo ngại về nhu cầu xuất khẩu ngô, sau khi Bộ Nông nghiệp Mỹ báo cáo doanh số xuất khẩu ngô hàng tuần thấp hơn dự kiến . Đồng đô la mạnh hơn làm cho hàng hóa của Mỹ đắt hơn đối với những người nắm giữ các loại tiền tệ khác.
Hợp đồng ngô giao dịch nhiều nhất đã giảm 1-1/2 cent xuống 6,80-3/4 USD/bushel, chạm mức giá thấp nhất kể từ ngày 19 tháng 10. Giá lúa mì kết thúc tuần giảm 9-1/4 cent xuống 8,29-1/4 USD/bushel, là mức giá thấp nhất kể từ ngày 19 tháng 9.
Giá đậu tương phiên này tăng do dữ liệu xuất khẩu của Mỹ cao. Hợp đồng đậu tương giao dịch nhiều nhất giá tăng 6-3/4 cent lên 14,00-1/4 USD/bushel.
Công ty nghiên cứu AgResource có trụ sở tại Chicago lo ngại Mỹ có thể mất thêm thị phần vào tay Nam Mỹ trong niên vụ 2023-2024. AgResource cũng không chắc chắn về hoạt động giao thương ở Biển Đen.
Khu vực Paraguay, Parana và Sao Paulo ở miền nam Brazil cũng sẽ bị ảnh hưởng bởi mưa phùn vào cuối tuần. Còn các khu vực Mato Grosso do Sul và Mato Grosso được dự báo sẽ có mưa rào vào đầu tuần tới. Ở miền nam Brazil sẽ có mưa vào ngày 1/11. Còn các khu vực trồng trọt ở Nam Mỹ sẽ chứng kiến kiểu thời tiết khô hạn, ít mưa từ ngày 1-10/11.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 3 giảm 0,13 cent, tương đương 0,7%, xuống 17,58 cent/lb, sau khi giảm xuống mức thấp nhất trong 3-1/2 tuần là 17,55 cent. Hợp đồng này đã mất 4,35% trong tuần và 6,8% trong hai tuần qua.
Giá đường trắng giao tháng 12 giảm 0,3% xuống 515,80 USD/tấn.
Các đại lý cho biết triển vọng thặng dư toàn cầu trong niên vụ 2022/23 tiếp tục khiến thị trường ở thế phòng thủ, mặc dù nguồn cung ngắn hạn vẫn khan hiếm.
Giá cà phê arabica kỳ hạn trên sàn ICE giảm 5% xuống mức thấp nhất trong 15 tháng, chịu sức ép bởi triển vọng vụ mùa năm tới ở Brazil được cải thiện và lo ngại rằng suy thoái kinh tế toàn cầu có thể hạn chế nhu cầu.
Phiên 28/10, giá cà phê arabica giao tháng 12 giảm 9,05 cent, tương đương 5,1%, ở mức 1,698 USD/lb sau khi chạm mức thấp nhất trong 15 tháng là 1,6775 USD. Hợp đồng này đã mất 11% giá trị trong tuần qua và 25% trong bốn tuần qua. Giá cà phê robusta giao tháng 1 giảm 29 USD, tương đương 1,5%, xuống 1.849 USD/tấn sau khi giảm xuống mức thấp nhất trong 14 tháng là 1.833 USD.
Indonesia đã xuất khẩu 53.269 tấn cà phê robusta Sumatra trong tháng 9, nhiều hơn gấp đôi lô hàng trong cùng tháng một năm trước đó, dữ liệu từ một văn phòng thương mại địa phương cho thấy.
Giá cao su kỳ hạn trên thị trường Nhật Bản giảm trong ngày thứ Sáu, theo đà giảm ở thị trường Thượng Hải và sự suy yếu của thị trường nội địa, trong bối cảnh nhiều thành phố khác nhau ở Trung Quốc, nước tiêu thụ hàng đầu thế giới, đưa ra những hạn chế mới chống COVID-19.
Hợp đồng cao su giao tháng 4 trên Sở giao dịch Osaka kết thúc phiên giảm 5,6 yên, tương đương 2,6%, xuống 210,4 yên (1,44 USD)/kg, mức thấp nhất kể từ tháng 10 năm 2021. Hợp đồng này đã giảm khoảng 4,9% trong cả tuần. Hợp đồng cao su giao tháng 1 trên sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải giảm 335 nhân dân tệ xuống 11.835 nhân dân tệ (1.636 USD)/tấn. Hợp đồng cao su giao tháng 11 trên nền tảng SICOM của Sàn giao dịch Singapore giảm 3,5% xuống 117,8 US cent/kg.
Những tháng qua đã chứng kiến những lo ngại ngày càng tăng về nhu cầu cao su ở Trung Quốc chậm lại, do nước này phải vật lộn với cuộc khủng hoảng bất động sản và các đợt nắng nóng làm gián đoạn sản xuất.
Giá hàng hóa thế giới

 

 

ĐVT

Giá 21/10

Giá 28/10

28/10 so với 27/10

28/10 so với 27/10 (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

85,58

87,92

+0,02

+0,02%

Dầu Brent

USD/thùng

94,11

95,77

0,00

0,00%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

75.350,00

76.110,00

+530,00

+0,70%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

4,92

6,04

+0,35

+6,18%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

265,85

290,66

-10,50

-3,49%

Dầu đốt

US cent/gallon

386,66

454,98

+21,59

+4,98%

Dầu khí

USD/tấn

1.078,00

1.120,25

-13,25

-1,17%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

84.840,00

83.000,00

0,00

0,00%

Vàng New York

USD/ounce

1.659,70

695,75

+15,00

+2,20%

Vàng TOCOM

JPY/g

7.894,00

873,00

+43,75

+5,28%

Bạc New York

USD/ounce

19,24

19,09

-0,06

-0,30%

Bạc TOCOM

JPY/g

90,40

90,60

-0,10

-0,11%

Bạch kim

USD/ounce

944,72

944,24

-3,73

-0,39%

Palađi

USD/ounce

2.046,73

1.912,00

+0,50

+0,03%

Đồng New York

US cent/lb

348,40

342,10

-0,80

-0,23%

Đồng LME

USD/tấn

7.624,00

7.550,00

-214,50

-2,76%

Nhôm LME

USD/tấn

2.206,00

2.211,50

-76,00

-3,32%

Kẽm LME

USD/tấn

2.928,00

2.821,50

-120,50

-4,10%

Thiếc LME

USD/tấn

18.484,00

18.101,00

-589,00

-3,15%

Ngô

US cent/bushel

679,50

695,75

+15,00

+2,20%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

852,75

873,00

+43,75

+5,28%

Lúa mạch

US cent/bushel

378,00

375,75

+9,25

+2,52%

Gạo thô

USD/cwt

16,73

16,77

+0,27

+1,64%

Đậu tương

US cent/bushel

1.394,25

1.408,50

+8,25

+0,59%

Khô đậu tương

USD/tấn

414,30

428,10

+2,70

+0,63%

Dầu đậu tương

US cent/lb

71,05

73,24

+1,45

+2,02%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

875,30

873,40

+9,30

+1,08%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.306,00

2.302,00

-12,00

-0,52%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

190,90

167,75

-9,20

-5,20%

Đường thô

US cent/lb

18,38

17,58

-0,13

-0,73%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

197,00

200,25

+1,60

+0,81%

Bông

US cent/lb

79,83

72,85

+0,74

+1,03%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

539,00

458,20

-18,30

-3,84%

Cao su TOCOM

JPY/kg

123,80

115,40

-3,00

-2,53%

Ethanol CME

USD/gallon

2,16

2,16

0,00

0,00%

 

 

Nguồn: Vinanet/VITIC (Theo Reuters, Bloomberg)