Dầu thô Brent ổn định ở mức 83,92 USD, tăng 2,94 USD hay 3,6%, trong khi dầu thô Mỹ (WTI) ở mức 79,56 USD/thùng, tăng 2,07 USD hay 2,7%. Cả hai loại dầu đều ghi nhận mức tăng hàng tuần lớn nhất kể từ tháng 10/2022.
Nga có thể cắt giảm sản lượng dầu từ 5% đến 7% vào đầu năm 2023 khi nước này phản ứng với việc áp dụng giá trần, hãng tin RIA dẫn lời Phó Thủ tướng Alexander Novak cho biết hôm thứ Sáu.
Xuất khẩu dầu Baltic của Nga có thể giảm 20% trong tháng 12 so với tháng trước sau khi Liên minh châu Âu áp đặt giá trần đối với dầu thô của Nga từ ngày 5 tháng 12, theo tính toán của các thương nhân và Reuters.
Leon Li, nhà phân tích tại công ty tài chính CMC Markets (Anh), cho biết: "Khi dự trữ dầu thô của Mỹ giảm và các cơn bão mùa đông đổ bộ vào Mỹ, nhiệt độ lạnh dự kiến sẽ kéo dài và nhu cầu về dầu sưởi sẽ tăng cao".
Cơ quan Thông tin Năng lượng cho biết tồn trữ dầu thô của Mỹ giảm nhiều hơn dự kiến trong tuần tính đến ngày 16/12 do nhập khẩu giảm mạnh, với tồn trữ giảm 5,9 triệu thùng xuống 418,2 triệu thùng so với dự báo giảm 1,7 triệu thùng.
Tuy nhiên, lo ngại về việc Cục Dự trữ Liên bang (Fed) tăng lãi suất và chính sách của Trung Quốc liên quan đến số ca nhiễm COVID-19 gia tăng – có thể làm giảm nhu cầu.
Eli Tesfaye, chiến lược gia thị trường cấp cao tại RJO Futures, cho biết: “Khả năng cắt giảm từ Nga có thể tiếp thêm động lực cho những người đầu cơ giá lên. "Nếu nhu cầu toàn cầu tiếp tục ở tốc độ hiện tại, việc cắt giảm đó có thể có tác động đáng kể và giá dầu có thể ở trong phạm vi 80 USD/thùng."
Cả nhu cầu và sản lượng dầu thô có thể sụt giảm trong vài ngày tới do ngừng hoạt động bởi cơn bão mùa đông lớn đổ bộ qua một vùng rộng lớn của Mỹ. Một số nhà máy lọc dầu lớn nhất của Mỹ đã đóng cửa do thời tiết quá lạnh trong khi sản lượng ở Texas và Bắc Dakota bị đình trệ.
Giá xăng Mỹ RBc1 và dầu diesel có hàm lượng lưu huỳnh thấp đều tăng hơn 5% do dự kiến cắt giảm sản lượng lọc dầu và nhu cầu dầu sưởi tăng.
Nhà phân tích Giovanni Staunovo cho biết ngân hàng Thụy Sĩ UBS dự kiến giá có thể tăng trở lại trên 100 USD/thùng vào năm tới do Nga cắt giảm sản lượng và nới lỏng các hạn chế liên quan đến COVID ở Trung Quốc.
Xuất khẩu dầu Baltic của Nga trong tháng Mười Hai có thể giảm 20% so với tháng trước sau khi Liên minh châu Âu (EU) và các quốc gia thuộc Nhóm các nước công nghiệp phát triển (G7) áp đặt lệnh trừng phạt và mức giá trần đối với dầu thô của Nga từ ngày 5/12.
Xuất khẩu xăng, dầu diesel của Trung Quốc trong tháng 11 tăng
Xuất khẩu xăng và dầu diesel của Trung Quốc tiếp tục tăng trong tháng 11/2022, lần lượt đạt mức cao nhất kể từ tháng 5 năm 2021, khi các nhà máy lọc dầu gấp rút sử dụng hết hạn ngạch xuất khẩu năm 2022 và bán bớt hàng tồn kho đang tăng.
Trung Quốc đã xuất khẩu 2,1 triệu tấn dầu diesel vào tháng 11, gấp đôi mức của tháng 10 và tăng từ 600.000 tấn trong cùng kỳ năm 2021, theo dữ liệu từ Tổng cục Hải quan.
Xuất khẩu xăng là 1,49 triệu tấn trong tháng 11, so với 1 triệu tấn một tháng trước đó và 810.000 tấn một năm trước đó.
Vào tháng 9, các nhà chức trách Trung Quốc đã phân bổ hạn ngạch xuất khẩu bổ sung 15 triệu tấn khi nước này cố gắng vực dậy nền kinh tế đang bị ảnh hưởng bởi đại dịch.
Các nhà máy lọc dầu cũng đẩy mạnh xuất khẩu để giảm bớt áp lực tồn kho sản phẩm của họ khi các biện pháp hạn chế COVID-19 của chính phủ làm giảm nhu cầu dầu trong nước.
Sản lượng dầu diesel và xăng dự kiến sẽ giảm trong tháng 11 so với tháng trước lần lượt là 1,3% và 2,8%, theo công ty tư vấn Longzhong có trụ sở tại Trung Quốc.
Xuất khẩu nhiên liệu máy bay phản lực cũng tăng vọt trong tháng 11, tăng 8,6% so với tháng 10 lên 1,26 triệu tấn, do du lịch quốc tế Trung Quốc phục hồi.
Các nhà phân tích dự báo các lô hàng sản phẩm dầu tinh chế của Trung Quốc sẽ tiếp tục tăng trong tháng 12, dẫn đầu là dầu diesel, nhưng chính sách xuất khẩu có thể thay đổi vào năm 2023 do việc nới lỏng các biện pháp kiểm soát COVID-19 dự kiến sẽ thúc đẩy tiêu thụ nhiên liệu trong nước.
Dữ liệu hải quan cũng cho thấy nhập khẩu khí đốt tự nhiên hóa lỏng (LNG) của Trung Quốc giảm 5,4% so với một năm trước đó xuống còn 6,42 triệu tấn. Trong 11 tháng đầu năm, nhập khẩu LNG thấp hơn 20,1% so với cùng kỳ năm trước ở mức 56,88 triệu tấn.
Nguồn cung và nhu cầu dầu thế giới
Sản lượng dầu mỏ của khu vực ngoài OPEC (gồm NGL của OPEC) tháng 11/2022 tăng 0,8 triệu thùng/ngày, đạt 72,7 triệu thùng/ngày, tăng 2,1 triệu thùng/ngày so với cùng tháng năm trước.
Mỹ: Sản lượng dầu mỏ của Mỹ năm 2022 dự kiến tăng 1,1 triệu thùng/ngày so với năm 2021, đạt mức trung bình 19 triệu thùng/ngày, tăng 44 nghìn thùng/ngày so với dự báo tháng trước. Sản lượng dầu thô và khí ngưng tụ dự kiến tăng 0,6 triệu thùng/ngày, đạt mức 11,8 triệu thùng/ngày.
Trong năm 2023, sản lượng dầu thô dự báo tăng 0,8 triệu thùng/ngày đạt 12,6 triệu thùng/ngày.
Nga: Sản lượng dầu mỏ của Nga trong tháng 11/2022 giảm 15 nghìn thùng/ngày so với tháng trước, đạt trung bình 11,1 triệu thùng/ngày (bao gồm 9,7 triệu thùng thùng/ngày sản lượng dầu thô và 1,3 triệu thùng/ngày khí NGL).
Năm 2022 sản lượng dầu mỏ dự báo sẽ tăng thêm 160 nghìn thùng/ngày so với năm trước, đạt mức trung bình 11 triệu thùng/ngày, tăng 26 nghìn thùng/ngày so với dự báo tháng trước. Năm 2023, sản lượng dầu mỏ dự báo giảm 0,85 triệu thùng/ngày xuống mức 10,1 triệu thùng/ngày.
Nga- nước chiếm khoảng 10% sản lượng dầu toàn cầu, đã và đang thiết lập quan hệ chặt chẽ hơn với nhiều nước châu Á và Trung Quốc - nước tiêu thụ năng lượng hàng đầu thế giới - nhằm đa dạng hóa điểm đến của năng lượng xuất khẩu, vượt ra khỏi các thị trường truyền thống ở châu Âu.
Na Uy: Sản lượng dầu mỏ của Na Uy trong tháng 10/2022 tăng 118 nghìn thùng/ngày so với tháng trước, đạt 2 triệu thùng/ngày. Sản lượng dầu thô của Na Uy trong tháng 10/2022 tăng 106 nghìn thùng/ngày so với tháng trước, đạt 1,7 triệu thùng/ngày. Sản lượng NGL và khí ngưng tụ tăng 12 nghìn thùng/ngày trong tháng 10/2022 so với tháng trước, đạt 0,2 triệu thùng/ngày.
Trong năm 2022, sản lượng dẩu mỏ dự kiến sẽ giảm 35 nghìn thùng/ngày đạt trung bình 1,9 triệu thùng/ngày, điều chỉnh giảm chủ yếu là do sản lượng trong quý IV/2022 giảm. Năm 2023, sản lượng dầu mỏ dự báo sẽ tăng 0,3 triệu thùng/ngày, đạt 2,2 triệu thùng/ngày, với việc triển khai giai đoạn 2 của mỏ dầu lớn Johan Sverdrup sẽ là nguồn tăng sản lượng chính.
Brazil: Sản lượng dầu thô của Brazil trong tháng 10/2022 tăng 96 nghìn thùng/ngày, đạt trung bình 3,2 triệu thùng/ngày.
Tổng sản lượng nhiên liệu lỏng của Brazil gồm cả nhiên liệu sinh học trong tháng 10/2022 tăng 91 nghìn thùng/ngày, đạt 3,9 triệu thùng/ngày.
Trong năm 2022, dự kiến nguồn cung nhiên liệu của Brazil tăng 0,1 triệu thùng/ngày đạt trung bình 3,7 triệu thùng/ngày. Sản lượng dầu thô dự kiến sẽ tăng thông qua hai dự án khởi động mới. Trong năm 2023, nguồn cung nhiên liệu lỏng bao gồm cả nhiên liệu sinh học dự báo tăng 0,2 triệu thùng/ngày, đạt mức trung bình 3,9 triệu thùng/ngày.
Trung Quốc: Sản lượng dầu mỏ của Trung Quốc trong tháng 10/2022 tăng 39 nghìn thùng/ngày so với tháng trước đó, đạt trung bình 4,4 triệu thùng/ngày. Sản lượng dầu thô trong tháng 10/2022 tăng 41 nghìn thùng/ngày so với tháng trước, đạt 4,0 triệu thùng/ngày. Trong năm 2022, sản lượng dầu mỏ ước đạt trung bình 4,5 triệu thùng/ngày, tăng 151 nghìn thùng/ngày so với năm trước đó. Trung Quốc đặt ra kế hoạch 5 năm (2021-2025) duy trì sản lượng dầu mỏ trên 4 triệu thùng/ngày.
Trung Quốc đã xuất khẩu khoảng 1,15 triệu thùng/ngày trong tháng 10/2022, giảm so với mức xuất khẩu 1,5 triệu thùng/ngày trong tháng 9/2022 và 1,23 triệu thùng/ngày trong tháng 8/2022, nhưng vẫn tăng mạnh nhất kể từ tháng 7 năm ngoái.
Canada: Sản lượng dầu mỏ của Canada trong tháng 10/2022 tăng 18 nghìn thùng/ngày so với tháng liền trước, đạt trung bình 5,8 triệu thùng/ngày.
Sản lượng dầu thô truyền thống trong tháng 10/2022 đạt 1,25 triệu thùng/ngày, tăng 15 nghìn thùng/ngày so với tháng trước. Sau thời tiết băng giá, các nhà khai thác đã cố gắng tiếp tục hoạt động trở lại.
Nguồn cung dầu của Canada trong năm 2022 tăng 0,2 triệu thùng/ngày so với năm 2021, đạt trung bình 5,6 triệu thùng/ngày. Trong năm 2023 nguồn cung dầu dự báo sẽ tăng 0,2 triệu thùng/ngày lên mức trung bình 5,8 triệu thùng/ngày. Sản lượng gia tăng chủ yếu đến từ mỏ cát dầu của tỉnh Alberta, nơi có mức sản lượng trung bình 3,1 triệu thùng/ngày trong năm 2022.
Sản lượng dầu mỏ khu vực ngoài OPEC năm 2022 đạt 65,57 triệu thùng/ngày, tăng 1,89 triệu thùng/ngày so với năm 2021. Dự báo năm 2023 tăng khoảng 1,54 triệu thùng/ngày so với năm 2022, đạt trung bình 67,11 triệu thùng/ngày. Những nước đóng góp vào tăng trưởng nguồn cung trong năm 2023 là Mỹ, Brazil, Canada, Kazakhstan và Na Uy, trong khi sản lượng dầu dự kiến giảm chủ yếu ở Nga và Mexico.
Trung Quốc: Trung Quốc áp dụng chiến lược Không COVID (Zero COVID) đẩy các công ty và người lao động vào nguy cơ đóng cửa nhanh chóng, đóng băng các hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ tác động mạnh lên nhu cầu dầu ở Trung Quốc. Nhu cầu dầu của Trung Quốc giảm 0,2 triệu thùng/ngày trong tháng 10/2022, sau khi phục hồi trong tháng 9/2022, tăng 0,6 triệu thùng/ngày. Mặc dù bị ảnh hưởng Covid-19 nhu cầu dầu diesel vẫn tăng 0,7 triệu thùng/ngày chủ yếu do nhu cầu của ngành công nghiệp và lĩnh vực hóa dầu tăng.
Nhu cầu xăng giảm 0,39 triệu thùng/ngày trong tháng 10/2022, từ mức giảm 0,2 triệu thùng/ngày trong tháng 9/2022. Nhu cầu đi lại bằng đường hàng không tiếp tục chậm lại do hạn chế của đại dịch.
Theo dữ liệu hải quan Trung Quốc, nhập khẩu dầu thô của Trung Quốc đã phục hồi trong tháng 10/2022, nhập khẩu 10,16 triệu thùng/ngày (bpd), cao nhất kể từ tháng 5 và tăng 14% so với cùng tháng năm 2021.
Trung Quốc tăng cường nhập khẩu nhập khẩu dầu thô để bổ sung kho dự trữ hoạt động cho hai nhà máy lọc dầu mới do giá dầu thấp hơn so với các tháng trước. Nhập khẩu dầu thô cũng được tăng cường nhờ việc cấp thêm hạn ngạch cho các nhà máy lọc dầu độc lập, trong đó Zhejiang Petrochemical Corp được cấp 10 triệu tấn, tương đương khoảng 73 triệu thùng, và ChemChina nhận được khoảng 32 triệu thùng.
Saudi Arabia, nhà xuất khẩu dầu thô lớn nhất thế giới và thường là nhà cung cấp hàng đầu của Trung Quốc, cũng hạ giá bán chính thức (OSP) cho các lô hàng vận chuyển trong tháng 10, điều này có thể khuyến khích các nhà máy lọc dầu mua thêm dầu.
Hạn ngạch bổ sung có thể sẽ thúc đẩy nhập khẩu trong quý IV/2022 khi các nhà máy lọc dầu tăng cường mua hàng để sử dụng đầy đủ lượng phân bổ của họ.
Các ca nhiễm Covid-19 gia tăng tại một số thành phố lớn của Trung đã tác động tới nhu cầu dầu mỏ Trung Quốc năm 2022. Dự báo nhu cầu dầu mỏ năm 2022 chỉ tăng 0,4 triệu thùng/ngày, từ mức tăng 1,0 triệu thùng/ngày trong năm 2021. Trong quý I/2023 dự đoán nhu cầu dầu sẽ giảm 55 nghìn thùng/ngày do ảnh hưởng của dịch Covid-19.
Ấn Độ: Nhu cầu dầu của Ấn Độ vẫn duy trì mức tăng trong tháng 10/2022, tăng 0,1 triệu thùng/ngày so với năm trước đó, đạt 4,7 triệu thùng/ngày. Nhu cầu xăng dầu được hỗ trợ mạnh bởi kinh tế tăng trưởng kể từ khi nới lỏng các hạn chế Covid-19.
Nhu cầu xăng dầu được thúc đẩy bởi hoạt động, sản xuất kinh doanh các ngành công nghiệp. Thu nhập của người tiêu dùng tăng, thúc đẩy hoạt động du lịch, tổng lưu lượng hành khách hàng không của Ấn Độ (trong nước và quốc tế) tăng.
Trong năm 2022, với dự kiến tăng trưởng kinh tế 7,1% và sẽ nhanh chóng ngăn chặn được biến thể Omicron Covid-19, nhu cầu dầu đã phục hồi. Lưu lượng giao thông đã tăng trở lại, nhu cầu xăng và dầu diesel sẽ tăng dựa trên triển vọng kinh tế tiếp tục phát triển và nhu cầu về nhiên liệu vận tải. Lĩnh vực công nghiệp phát triển sẽ hỗ trợ cho nhu cầu dầu diesel, LPG và naphtha. Các lễ hội hàng năm trong quý IV/2022 sẽ thúc đẩy nhu cầu xăng dầu. Với mức tăng trưởng dự kiến 6,5% trong quý I/2023, hoạt động kinh tế và xã hội kỳ vọng sẽ duy trì ổn định, nhu cầu dầu dự báo tăng 0,2 triệu thùng/ngày so với năm trước. Nhu cầu xăng dự đoán là sản phẩm tăng mạnh nhất trong quý I/2023, sau đó là diesel.
OECD Châu Âu: Tiêu thụ xăng dầu trong khu vực giảm 60 nghìn thùng/ngày so với cùng kỳ năm trước, sau khi tăng 0,2 triệu thùng/ngày trong tháng trước đó. Hoạt động hàng không vẫn duy trì đà tăng 78,3% so với cùng kỳ năm trước.
Tuy nhiên hoạt động sản xuất trong khu vực tiếp tục suy yếu do hoạt động kinh tế chậm lại và tỷ lệ lạm phát trong khu vực đồng euro tiếp tục tăng và đã đạt kỷ lục mới vào tháng 9 khi lên đến 10,9%. Đây cũng là mức cao nhất kể từ khi khu vực đồng tiên chung được thành lập. So với tháng 8, tỷ lệ lạm phát trong tháng 9 đã vượt quá dự đoán của các nhà phân tích, những người đã tính toán mức tăng trưởng chỉ đạt tối đa 9,7%. Trong đó, giá năng lượng đã tăng 2,2% so với tháng trước.
Lạm phát khu vực đồng tiền chung châu Âu cao hơn nhiều so với mục tiêu 2% của Ngân hàng Trung ương Châu Âu (ECB). Năm nay, lần đầu tiên kể từ năm 2011, trước tình hình giá tiêu dùng tăng mạnh, lãi suất cơ bản đã tăng. Vào tháng 9, ngân hàng này đã tăng lãi suất 0,75% lên 1,25%, một mức chưa từng có trong lịch sử.
Dự báo GDP của khu vực đồng tiền chung châu Âu sẽ chậm lại từ tốc độ tăng trưởng 2,0% trong quý 3/2022 xuống còn 0,5% trong quý 4/2022, do ảnh hưởng tăng trưởng kinh tế chậm lại, căng thẳng địa chính trị, hoạt động sản xuất thương mại ảnh hưởng đến nhu cầu dầu của khu vực.
Triển vọng về nhu cầu dầu mỏ của châu Âu trong quý I/2023 dự kiến sẽ không cải thiện do tăng trưởng GDP của khu vực sẽ giảm. Ngoài ra, giá năng lượng tăng, căng thẳng địa chính trị và gián đoạn nguồn cung là nguyên nhân dẫn tới nhu cầu dầu mỏ sẽ chậm lại.
Dự báo của OPEC: Các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) nhận định nhu cầu dầu mỏ năm 2022 tăng 2,55 triệu thùng/ngày, tương đương 2,6%, viện dẫn những thách thức kinh tế ngày càng lớn, trong đó có lạm phát và lãi suất cao.
OPEC cho rằng nền kinh tế thế giới đã bước vào giai đoạn tiềm ẩn nhiều rủi ro và đối mặt với thách thức ngày càng lớn trong quý 4/2022. Các rủi ro bao gồm lạm phát cao, các ngân hàng trung ương lớn siết chặt chính sách tiền tệ, tỷ lệ nợ công cao tại nhiều khu vực, thị trường lao động ngày càng thu hẹp và những hạn chế kéo dài của chuỗi cung ứng.
OPEC dự báo nhu cầu dầu mỏ thế giới trong năm 2023 có thể tăng thêm 2,6 triệu thùng/ngày, đạt 99,6 triệu thùng/ngày. Theo OPEC, bên cạnh những rủi ro, vẫn còn nhiều nhân tố tích cực tác động đến kinh tế. Vì vậy, tổ chức này vẫn giữ nguyên dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2022 và 2023.
OPEC cho rằng triển vọng kinh tế có thể đến từ nhiều nguồn khác nhau, chẳng hạn giải pháp cho vấn đề địa chính trị tại Đông Âu có thể tác động đến lạm phát, giúp giảm bớt việc thắt chặt chính sách tiền tệ. Báo cáo này được đưa ra trước thềm cuộc họp của OPEC cùng các đối tác (OPEC+) vào ngày 4/12 tới nhằm thống nhất chính sách.
Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) cho biết xuất khẩu dầu của Nga sang Liên minh châu Âu (EU) trong tháng 11/2022 đã giảm 430.000 thùng/ngày so với tháng trước đó, xuống còn 1,4 triệu thùng/ngày.
IEA cho hay khối lượng dầu thô vận chuyển bằng đường biển của Nga giảm 330.000 thùng/ngày xuống còn 500.000 thùng/ngày. Đây là lần đầu tiên con số này thấp hơn mức vận chuyển qua đường ống Druzhba là 590.000 thùng/ngày. Do đó, tỷ trọng xuất khẩu dầu thô của Nga sang EU đã giảm xuống 28% trong tháng 11/2022 so với 31% trong tháng 10/2022 và từ 50% trước khi diễn ra cuộc xung đột với Ukraine hồi tháng 2/2022.
Trong khi đó, xuất khẩu dầu thô của Nga sang Ấn Độ đạt kỷ lục 1,3 triệu thùng/ngày trong tháng 11/2022, còn xuất khẩu sang Trung Quốc, bao gồm cả đường biển và đường ống dẫn dầu, nhìn chung không thay đổi ở mức 1,9 triệu thùng/ngày.
Vào ngày 5/12, lệnh cấm nhập khẩu dầu thô từ Nga của EU và mức giá trần mà Nhóm các nước công nghiệp hàng đầu thế giới (G7) áp đặt đối với xuất khẩu dầu thô đường biển của Nga ở mức 60 USD/thùng đã bắt đầu có hiệu lực, điều này dự kiến sẽ làm giảm sản lượng dầu của Nga.
Theo IEA, khoảng 100.000 thùng dầu thô xuất khẩu bằng đường biển của Nga cũng không nằm trong lệnh cấm của EU. Liên minh này đang tìm cách bù đắp sự sụt giảm nhập khẩu dầu thô của Nga bằng cách tăng nguồn cung từ Trung Đông, Tây Phi, Na Uy, Brazil và Guyana.
Goldman Sachs đã hạ dự báo giá dầu trong năm 2023
Ngân hàng Goldman Sachs đã cắt giảm dự báo giá dầu cho năm 2023, dự báo thị trường dư thừa vào đầu năm tới giúp giá dầu giảm.
Ngân hàng cho biết giá dầu ít có khả năng tăng vọt trong mùa đông này với việc Trung Quốc tiêu thụ ít hơn dự kiến trước đó, xuất khẩu của Nga gần bằng mức trước.
Goldman dự kiến thị trường dầu mỏ sẽ kết thúc quý hiện tại với mức thặng dư 1,6 triệu thùng mỗi ngày (bpd), trong khi nhu cầu thấp hơn theo mùa sẽ khiến quý đầu tiên của năm 2023 có mức thặng dư 1,3 triệu thùng/ngày.
Dự báo nhu cầu toàn cầu sẽ tăng 2 triệu thùng/ngày vào năm 2023, khi Trung Quốc mở cửa trở lại và du lịch quốc tế phục hồi.
Trong năm 2023, Goldman dự báo giá dầu Brent trung bình 98 USD/thùng và WTI ở mức 92 USD/thùng, giảm so với dự báo trước đó là 110 USD đối với dầu Brent và 105 USD/thùng đối với WTI.
Trong hai quý cuối cùng của năm 2023, Goldman cho biết họ dự đoán giá dầu Brent sẽ tăng lên 100-105 USD/thùng, vẫn thấp hơn so với dự báo trước đó là 110 USD/thùng.
Dự kiến giá sẽ tăng vào năm 2024, với Brent trung bình là 105 USD/thùng và WTI là 99 USD/thùng.
Tính đến thời điểm hiện tại giá dầu thô Brent đã giảm hơn 40% so với mức đỉnh tháng 3 là 139 USD/thùng.
Trong một lưu ý khác, Goldman cho biết bất chấp tình trạng giá giảm gần đây, dầu sẽ vẫn là hàng hóa diễn biến tốt nhất trong năm 2022.
Giá khí đốt tự nhiên hóa lỏng tại Mỹ tăng 2%
Giá khí đốt tự nhiên hóa lỏng tại Mỹ (LNG) tăng khoảng 2% vào thứ Sáu (23/12), do thời tiết lạnh trong tuần này đã đẩy giá điện và giá khí đốt giao ngay lên mức cao nhất trong nhiều năm qua trên nhiều quốc gia và cắt giảm sản lượng khí đốt xuống mức thấp nhất trong 9 tháng do đóng băng ở các giếng khí ở Texas, Oklahoma, North Dakota, Pennsylvania và các nơi khác.
Nhu cầu hàng ngày của Mỹ từ bốn lĩnh vực tiêu thụ khí đốt lớn nhất - dân dụng, thương mại, điện và công nghiệp - đang trên đà đạt 147,3 tỷ feet khối (bcf) vào thứ Sáu, dễ dàng phá vỡ kỷ lục hiện tại là 131,1 bcf được thiết lập vào tháng 1 năm 2019, theo dữ liệu từ Refinitiv.
Các cơn bão đã khiến khoảng 1,5 triệu hộ gia đình và doanh nghiệp bị mất điện ở Bờ Đông, Trung Tây và Texas của Mỹ, đóng cửa một số nhà máy lọc dầu lớn và gây ra sự cố tại nhà máy xuất khẩu LNG Cameron ở Louisiana.
Giá LNG tăng bất chấp dự báo thời tiết lạnh hơn từ cuối tháng 12 đến đầu tháng 1 so với dự kiến trước đó. Dự trữ khí đốt cao hơn khoảng 1% so với mức trung bình 5 năm (2017-2021) vào thời điểm này trong năm.
Sản lượng khí đốt đã giảm khoảng 6,5 tỷ feet khối mỗi ngày (bcfd) trong bốn ngày qua xuống mức thấp sơ bộ trong 9 tháng là 92,4 bcfd vào thứ Sáu. Đó sẽ là mức giảm sản lượng hàng ngày lớn nhất kể từ đợt đóng băng vào tháng 2 năm 2021 khi một cơn bão mùa đông làm đóng băng nguồn cung cấp khí đốt ở Texas.
Sau nhiều tuần biến động mạnh, Giá LNG tăng 8,0 US cent, tương đương 1,6%, lên mức 5,079 USD/(mmBtu). Vào thứ Năm, hợp đồng đã đóng cửa ở mức thấp nhất kể từ khi đạt mức thấp nhất trong bảy tháng là 4,959 USD vào ngày 21 tháng 10.
Trong tuần, giá khí đốt kỳ hạn đã giảm khoảng 23% sau khi tăng khoảng 5,7% vào tuần trước. Đó sẽ là mức giảm hàng tuần lớn nhất của hợp đồng kể từ khi giá giảm 23,2% vào cuối tháng 10.
Các thương nhân cho biết sự không chắc chắn lớn nhất đối với thị trường vẫn còn khi Freeport LNG sẽ khởi động lại nhà máy xuất khẩu LNG của họ ở Texas.
Freeport LNG cho biết vào thứ Sáu rằng họ lại trì hoãn việc khởi động lại, lần này là từ cuối năm đến nửa cuối tháng 1, trong khi chờ phê duyệt theo quy định.
Refinitiv dự báo nhu cầu khí đốt trung bình của Mỹ, bao gồm cả xuất khẩu, sẽ tăng từ 139,9 bcfd trong tuần này lên 148,8 bcfd vào tuần tới khi thời tiết lạnh hơn đến trước khi giảm xuống 116,2 bcfd trong hai tuần.

Nguồn: VITIC/Reuter/OPEC