Tuy nhiên gần đây hiện tượng nông dân không thiết tha với sản xuất lúa gạo do lợi nhuận thấp như nông dân ĐBSCL gửi thư cho thủ tướng, hay nông dân Thái bình trả ruộng ngày càng phổ biến đang đặt ra nhiều câu hỏi về tính bền vững của ngành hàng lúa gạo Việt nam.  Các chuyên gia có uy tín cho rằng an ninh lương thực của nước ta có thể bị ảnh hưởng bởi 03 nguy cơ:- Dân số nước ta sẽ còn tăng, do nhu cầu tiêu dùng sẽ tăng rất nhanh, hơn nữa gần đây chúng ta đang phải nhập nhiều nguyên liệu làm thức ăn gia súc.- Đất nông nghiệp màu mỡ nhất đang bị mất rất nhanh do đô thị hoá, công nghiệp hoá, đầu cơ ruộng đất và những dự án phiêu lưu như chuyển đất lúa thành sân gôlf...- Nông dân đã chán sản xuất nông nghiệp vì bị thu nhập cao từ thành thị lôi kéo. Nếu để tình trạng di cư­ ra thành thị đ­ược tiến hành một cách tự phát như hiện nay, không kèm theo việc quản lỷ ruộng đất để tăng quy mô sản xuất cho những nông dân ở lại sản xuất nông nghiệp thì lao động nông nghiệp đang bị nữ hoá, chăn nuôi và nghề phụ đang bị giảm sút, nông nghiệp sẽ chuyển từ thâm canh sang quảng canh, đa dạng hoá nông nghiệp sẽ giảm, lao động nông nghiệp sẽ bị thiếu và giá  lao động tăng rất cao. Như vậy, bảo vệ đất nông nghiệp và quy hoạch lao động là các biện pháp chính sách hàng đầu để bảo đảm an ninh lương thực thực phẩm.
Có lẽ đây là dịp tốt để nhìn lại tổng thể các chính sách và yếu tố tác động đến phát triển ngành hàng lúa gạo Việt nam, một trong những trọng tâm của chiến lược an ninh lương thực mà nhà nước đang xây dựng.
Đảm bảo an ninh lương thực cấp quốc gia
Sau thời kỳ khủng hoảng giá lúa thế giới vừa qua, trong bản báo cáo gửi Chính phủ nhằm đề xuất giải pháp lớn nhằm ổn định tình hình an ninh lương thực ở nước ta, Bộ NN&PTNT kiến nghị phải giữ được ít nhất 3,9 triệu ha đất trồng lúa trong bối cảnh tốc độ lấy đất lúa chuyển sang mục đích sử dụng khác tại trọng điểm về trồng lúa đang diễn ra mạnh mẽ.  Trong giai đoạn 2000-2006, diện tích trồng lúa đã giảm  từ 4,47 triệu ha xuống còn 4,13 triệu ha, như vậy trung bình mỗi năm giảm tới 50 nghìn ha. Mặc dù  năng suất lúa của nước ta tăng bình quân 2,06% (giai đoạn 1997-2006) tương đương 770.000 tấn/năm nhưng trong giai đoạn 2003-2007 thì sản lượng lúa của chúng ta chỉ ở mức xấp xỉ 36 triệu tấn do giảm diện tích. Như vậy một mức trần về sản lượng đã được thiết lập nếu không có những biến động đột xuất về năng xuất lúa do áp dụng các giống năng xuất cao trong vài năm tới. Theo dự báo của Bộ NN&PTNT, mỗi năm nước ta gieo trồng được 7,2 triệu ha diện tích đất lúa. Cụ thể, tổng sản lượng lúa năm 2010 có thể đạt 37,58 triệu tấn, năm 2015 là 38,75 triệu tấn và đến 2020 sẽ đạt 39,63 triệu tấn. Trong đó, lượng tiêu thụ trong nước sẽ tăng từ 27,6 triệu tấn (năm 2007) lên 33,2 triệu tấn (năm 2020), đồng thời sản lượng lúa dành cho xuất khẩu ổn định trong giai đoạn này cũng dao động khoảng 6,34 – 8,3 triệu tấn (tương đương 3,8-4,5 triệu tấn gạo). Theo khảo sát mức sống Hộ gia đình 2006 của tổng cục thống kê, mức tiêu thụ gạo trên đầu người trên năm của Việt nam đã có xu hướng giảm ở mức 109 kg đối  thành phố và 142 kg đối với nông thôn. Bộ NN cũng đã đề xuất một số biện pháp cụ thể và kiên quyết đối với các địa phương về quản lý đất lúa để đảm bảo được 3,9 triệu ha đất trống lúa loại tốt. Tuy nhiên đây còn là một thách thức lớn, vì nếu các tỉnh không đưa trách nhiệm đảm bảo an ninh lương thực vào chiến lược địa phương mà chỉ coi đây là việc của quốc gia như tình trạng hiện nay.
Chính sách xuất khẩu gạo hay phát triển ngành hàng lúa gạo
Câu hỏi đặt ra là ngành sản xuất lúa gạo của chúng ta có thể đảm bảo tiếp tục xuất khẩu gạo như dự báo mang tính kế hoạch trên, trong khi có rất nhiều yếu tố tác động tiêu cực đến ngườì sản xuất và môi trường rất cần các chính sách hỗ trợ, điều tiết kinh tế xã hội ngoài các chính sách và hỗ trợ về kỹ thuật và đầu vào sản xuất mà nhà nước đang tập trung hiện nay. Giá lương thực tăng cao là cơ hội đối với nước xuất khẩu gạo như Việt nam, tuy vậy chúng ta cũng có những mối lo ngại về mất cơ hội xuất khẩu gạo do hệ thống sản xuất và lưu thông gặp nhiều khó khăn về thể chế tổ chức và chia sẻ lợi ích cần được tháo gỡ. Để đảm bảo ưu thế cạnh tranh trong xuất khẩu gạo cần giải quyết 2 vấn đề là đảm bảo chất lượng và nâng cao năng xuất lao động của nông dân sản xuất lúa, có liên quan đến vấn đề quy mô sản xuất của hộ. Đây là những vấn đề còn ít được nghiên cứu và chưa có giải pháp cụ thể.
Có thể nói đã đến lúc chúng ta cần có một gói chính sách tổng hợp nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững của ngành hàng lúa gạo với mục tiêu trước hết đảm bảo an ninh lương thực, thứ đến mới là xuất khẩu.
Lợi ích của nông dân sản xuất lúa gạo và thể chế ngành hàng
Lúa gạo hàng hóa phục vụ xuất khẩu chủ yếu tập trung ở đồng bằng sông Cửa Long. Tỷ suất lúa hàng hóa đạt 80-85% tổng sản lượng. Lúa hàng hóa phần lớn được nông dân bán cho các lái thu gom tại địa phương hoặc bán trực tiếp cho nhà máy xay xát tư nhân, bán trực tiếp cho các doanh nghiệp rất ít (chỉ có 0,9% số hộ bán trực tiếp cho các doanh nghiệp nhà nước kinh doanh xuất khẩu gạo). Người trồng lúa thường không có khả năng dự trữ và khả năng mặc cả nên thường bị thua thiệt. Chẳng hạn khi giá lúa xuất khẩu là 1000 USD/tấn thì giá lúa thu mua tối thiểu cũng phải là 8000 đồng/kg nhưng thực tế giá tại thị trường đồng bằng sông Cửu Long cũng chỉ là 5400 đồng/kg. Phần lợi nhuận này chủ yếu nằm trong tay tư thương chủ vựa lúa, có năng lực tích trữ và hưởng lợi từ thị trường. Việc phân chia lợi nhuận không công bằng trong ngành hàng như vậy sẽ không khuyến khích nông dân tiếp tục sản xuất lâu dài được. Chính sách quy định giá sàn thu mua thóc gạo của nhà nước mang tính hành chính như hiện nay chỉ mang tính hình thức vì nhà nước không có khả năng kiểm soát. Tăng cường năng lực cho tổ chức nông dân để có khả năng mặc cả là giải pháp hữu hiệu lâu dài của nông dân sản xuất lúa chuyên nghiệp.Hơn nữa với xu hướng tăng giá các vật tư đầu vào nhanh do lạm phát phi mã như hiện nay, nguy cơ về tăng giá thành sản xuất, giảm lợi nhuận của người sản xuất sẽ dẫn đến nông dân rơi vào cảnh nợ nần do đến 95% người dân hoạt động với phương thức vay trước trả sau vào thời vụ thu hoạch. Do hầu hết nông dân phải bán vào thời vụ thu hoạch do vậy không bao giờ có được giá cao bán cao. Để nông dân có thể yên tâm sản xuất cần có biện pháp chính sách cấp bách để ổn định giá vật tư đầu vào, nếu không thu nhập thực tế của hộ sản xuất có xu hướng giảm đi. Phân tích hoạt động của thị trường lúa gạo trong nước cho thấy nguyên nhân tăng giá lương thực trong nước vừa qua chủ yếu do đầu cơ và hệ thống phân phối kém và nhà nước ít có khả năng điều tiết hơn là do thiếu lương thực. Các nghiên cứu của thế giới cũng chỉ ra rằng thị trường lương thực cần có điều tiết của nhà nước để ổn định giá, nếu để thị trường tự do sẽ có mức biến động giá ngày càng tăng.  Vấn đề điều tiết chỉ có thể thực hiện được thông qua các thể chế tổ chức trong ngành hàng lúa gạo.
casrad.org.vn
 

Nguồn: Internet