Theo thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, trong tháng 1/2024 cả nước xuất khẩu 512.265 tấn gạo, tương đương 362,26 triệu USD, giá trung bình 707,2 USD/tấn, tăng 4% về lượng, tăng 7% về kim ngạch và tăng 2,8% về giá so với tháng 12/2023; còn so với tháng 1/2023 thì tăng mạnh 42,6% về khối lượng, tăng 94,1% về kim ngạch và tăng 36,2% về giá.
Philippines vẫn đứng đầu về tiêu thụ gạo của Việt Nam, chiếm 53,6% trong tổng lượng và chiếm 39% trong tổng kim ngạch gạo xuất khẩu của cả nước, đạt gần 280.944 tấn, tương đương gần 194,28 triệu USD, giá trung bình 691,5 USD/tấn, tăng 7,8% về lượng, tăng 8,1% về kim ngạch và tăng nhẹ 0,3% về giá so với tháng 12/2023; so với tháng 1/2023 tăng mạnh 117,2% về lượng, tăng 201% về kim ngạch và tăng 38,5% về giá.
Tiếp sau đó là thị trường Pháp chiếm trên 5% trong tổng lượng và tổng kim ngạch, đạt 17.919 tấn, tương đương 18,64 triệu USD, giá trung bình 1.040,2 USD/tấn, tăng mạnh 16.339% về lượng và tăng 18.356% về kim ngạch so với tháng 12/2023; trong khi tháng 1/2023 không xuất khẩu gạo sang thị trường này.
Thị trường Indonesia đứng thứ 3 đạt 27.256 tấn, tương đương 18,08 triệu USD, giá 663,3 USD/tấn, giảm 35,8% về lượng và giảm 29,3% về kim ngạch nhưng tăng 10% về giá so với tháng 12/2023; giảm 68,3% về lượng, giảm 55,8% kim ngạch và tăng 39,2% về giá so với tháng 1/2023, chiếm gần 5% trong tổng lượng và chiếm 3,2% trong tổng kim ngạch xuất khẩu gạo của cả nước.
Xuất khẩu sang các thị trường FTA RCEP đạt 351.286 tấn, tương đương 240,54 triệu USD, tăng 24,4% về lượng, tăng 66,2% kim ngạch so với cùng kỳ năm trước. Xuất khẩu sang các thị trường FTA CPTTP đạt 36.278 tấn, tương đương 24,32 triệu USD, tăng 84,4% về lượng, tăng 123,8% kim ngạch. Xuất khẩu sang thị trường Đông Nam Á đạt 341.006 tấn, tương đương 234,08 triệu USD, tăng 46,4% về lượng, tăng 103,7% kim ngạch.
Xuất khẩu gạo tháng 1/2024
(Tính toán từ số liệu công bố ngày 21/2/2024 của TCHQ)