Từ ngày 17/12/2016 đến ngày 16/1/2017, Bộ Công Thương đã cùng Ban Chỉ đạo của Chính phủ trực tiếp làm việc tại 9/12 Dự án để xem xét các vấn đề cụ thể. Từ tháng 12/2016 đến nay, Ban Chỉ đạo, Bộ Công Thương và các Bộ ngành đã ban hành 120 văn bản chỉ đạo để xử lý các vấn đề tồn tại, vướng mắc ở 12 dự án này (trong đó, Văn phòng Chính phủ ban hành 25 văn bản thông báo ý kiến chỉ đạo của Trưởng Ban Chỉ đạo và của Lãnh đạo Chính phủ; Bộ Công Thương đã ban hành 38 văn bản; các Bộ ngành, cơ quan liên quan ban hành 57 văn bản).
Liên quan đến hiện trạng và phương án xử lý 12 dự án chậm tiến độ, kém hiệu quả, Bộ Công Thương thông tin như sau:
1. Để rà soát, đánh giá toàn diện các khó khăn vướng mắc đối với các dự án thua lỗ, kém hiệu quả của ngành Công Thương và đưa ra các giải pháp cụ thể xử lý, giảm thiểu những thiệt hại của Nhà nước, ngày 30 tháng 12 năm 2016 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 2551/QĐ-TTg về việc thành lập Ban Chỉ đạo xử lý các tồn tại, yếu kém của một số Dự án/doanh nghiệp chậm tiến độ, kém hiệu quả thuộc ngành Công Thương. Trong đó, giao Phó Thủ tướng Chính phủ Vương Đình Huệ làm Trưởng Ban chỉ đạo, Bộ trưởng Bộ Công Thương làm Phó Trưởng Ban thường trực Ban Chỉ đạo, Bộ trưởng Bộ Tài chính làm Phó Trưởng Ban Chỉ đạo và đại diện của các Bộ ngành có liên quan làm thành viên Ban Chỉ đạo.
2. Không chỉ dừng lại ở 5 dự án bước đầu được báo cáo với Quốc hội tại Kỳ họp thứ 2 Quốc hội khóa XIV, Ban Chỉ đạo đã xác định 12 dự án/doanh nghiệp chậm tiến độ, kém hiệu quả thuộc ngành Công Thương để xem xét, đánh giá gồm: (1) Nhóm 04 dự án đầu tư sản xuất phân bón: Nhà máy sản xuất đạm Ninh Bình, nhà máy sản xuất đạm Hà Bắc, nhà máy sản xuất phân bón DAP số 1 - Hải Phòng và DAP số 2 - Lào Cai; (2) Nhóm 03 dự án đầu tư sản xuất nhiên liệu sinh học (NLSH): Nhà máy NLSH Quảng Ngãi, nhà máy NLSH Phú Thọ và nhà máy NLSH Bình Phước; (3) Nhóm 02 dự án đầu tư sản xuất thép: Nhà máy thép Việt Trung và dự án mở rộng giai đoạn 2 nhà máy Gang thép Thái Nguyên; (4) Nhà máy sản xuất xơ sợi polyester Đình Vũ (PVTex); (5) Công ty TNHH Một thành viên Công nghiệp tàu thủy Dung Quất (DQS); (6) Nhà máy sản xuất bột giấy Phương Nam.
Trong số 12 Dự án/nhà máy trên (sau đây gọi là Dự án), tới thời điểm hiện nay, có 06 nhà máy đang được vận hành sản xuất, kinh doanh nhưng bị thua lỗ (gồm 04 nhà máy sản xuất phân bón; DQS; và Nhà máy thép Việt Trung); 03 Dự án đang bị dừng thi công do chi phí tăng cao và thiếu vốn (Dự án sản xuất nhiên liệu sinh học Phú Thọ; Dự án mở rộng giai đoạn 2 Nhà máy gang thép Thái Nguyên; Dự án nhà máy bột giấy Phương Nam); 03 nhà máy đang bị dừng sản xuất do giá thành cao, thua lỗ lớn (Nhà máy sản xuất nhiên liệu sinh học Dung Quất; Nhà máy sản xuất nhiên liệu sinh học Bình Phước; Nhà máy sản xuất sơ sợi Đình Vũ - PVTex).
Tổng mức đầu tư ban đầu của 12 Dự án trên là: 43.673,63 tỷ đồng, và sau đó được phê duyệt điều chỉnh tăng lên: 63.610,96 tỷ đồng (tăng 45,65%). Trong đó: Vốn chủ sở hữu là: 14.350,04 tỷ đồng, chiếm 22,56%; vốn vay là: 47.451,24 tỷ đồng, chiếm 74,6%; còn lại 2,84% là từ các nguồn khác. Trong tổng số vốn vay: Vốn vay các ngân hàng trong nước: 41.801,24 tỷ đồng, trong đó vay Ngân hàng phát triển Việt Nam (VDB) là: 16.858,63 tỷ đồng và vay nước ngoài có bảo lãnh của Chính phủ là: 6.617,24 tỷ đồng.
Tổng số lỗ luỹ kế của 10 nhà máy đang sản xuất hoặc đã dừng sản xuất tới thời điểm 31 tháng 12 năm 2016 là: 16.126,02 tỷ đồng, trên tổng số vốn chủ sở hữu của các nhà máy này còn lại là: 3.985,14 tỷ đồng; Tổng tài sản của 12 nhà máy là: 57.679,02 tỷ đồng; Tổng nợ phải trả là: 55.063,38 tỷ đồng, trong đó nợ phải trả VDB là: 10.633,43 tỷ đồng và nợ phải trả nước ngoài có bảo lãnh của Chính phủ là: 4.299,83 tỷ đồng.
Tổng số vốn đã giải ngân của 03 Dự án dở dang, đang bị dừng thi công là 8.614 tỷ đồng, trên tổng nguồn thanh toán dự kiến là 13.066 tỷ đồng.
3. Trên tinh thần khẩn trương, quyết liệt, Ban Chỉ đạo của Chính phủ đã trực tiếp làm việc tại các dự án và ban hành nhiều văn bản chỉ đạo, xử lý các tồn tại, vướng mắc ở từng dự án. Từ ngày 17 tháng 12 năm 2016 đến ngày 16 tháng 01 năm 2017, Bộ Công Thương đã cùng với Ban Chỉ đạo của Chính phủ trực tiếp làm việc tại 9/12 Dự án để xem xét các vấn đề cụ thể, qua đó Trưởng Ban Chỉ đạo đã có kết luận chỉ đạo xử lý ở từng Dự án. Từ tháng 12 năm 2016 đến nay, Ban Chỉ đạo, Bộ Công Thương và các Bộ ngành đã ban hành 120 văn bản chỉ đạo để xử lý các vấn đề tồn tại, vướng mắc ở 12 dự án này (trong đó, Văn phòng Chính phủ ban hành 25 văn bản thông báo ý kiến chỉ đạo của Trưởng Ban Chỉ đạo và của Lãnh đạo Chính phủ; Bộ Công Thương đã ban hành 38 văn bản; các Bộ ngành, cơ quan liên quan ban hành 57 văn bản). Các nội dung chỉ đạo tổ chức triển khai thống nhất và xuyên suốt như sau:
- Các Tập đoàn, Tổng Công ty và Chủ đầu tư, Ban Quản lý Dự án khẩn trương rà soát, đánh giá, làm rõ thực trạng và nguyên nhân các vướng mắc, khó khăn của từng Dự án, trên cơ sở đó đề xuất các phương án xử lý cho từng Dự án. Các phương án xử lý cần tập trung vào một số nhóm nội dung sau:
+ Công tác quản trị doanh nghiệp: Các Tập đoàn, Tổng Công ty và Chủ đầu tư, Ban Quản lý Dự án tập trung xử lý các vấn đề cụ thể về tài chính, kỹ thuật của Dự án, quản trị doanh nghiệp, vận hành nhà máy, tiêu thụ sản phẩm, đàm phán với đối tác...
+ Cơ chế, chính sách hỗ trợ của Nhà nước: Các Bộ, ngành nghiên cứu xử lý các vấn đề về cơ chế, chính sách để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc về tài chính doanh nghiệp, điều chỉnh điều kiện vay vốn, trả gốc và lãi khoản vay, tạo dựng thị trường, chuyển giao công nghệ... cho các Dự án.
- Song song với việc xây dựng, thực hiện các phương án xử lý khó khăn của các Dự án, Ban Chỉ đạo đã giao cho các cơ quan chức năng (Bộ Công an, Kiểm toán Nhà nước, Thanh tra Chính phủ) tập trung điều tra, thanh tra, kiểm toán để làm rõ những sai phạm, vi phạm pháp luật ở các Dự án.
4. Đến thời điểm hiện tại, sau khi Ban Chỉ đạo của Chính phủ và Thường trực Chính phủ nghe, cho ý kiến, Bộ Công Thương đã tiếp thu, hoàn thiện Báo cáo tổng hợp rà soát đánh giá tình hình và phương án đề xuất xử lý cụ thể đối với từng dự án/doanh nghiệp hoạt động thua lỗ, kém hiệu quả của ngành Công Thương để gửi Thủ tướng Chính phủ xem xét, trình Bộ Chính trị.
Về phương án xử lý các dự án:
- Những giải pháp chung được xác định và chỉ đạo tập trung thực hiện khẩn trương để giải quyết ngay những khó khăn, vướng mắc ở các Dự án là:
+ Các cơ quan, đơn vị tổ chức thực hiện đầy đủ, đồng bộ, kiên quyết và dứt điểm các chỉ đạo, kết luận của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, thường trực Chính phủ và Ban Chỉ đạo của Chính phủ về xử lý 12 Dự án đã ban hành trong thời gian qua.
+ Trong năm 2017 các Chủ đầu tư Dự án phải tập trung kiên quyết, giải quyết dứt điểm các tồn đọng, vướng mắc tại các Dự án, đặc biệt là vướng mắc với các nhà thầu tại các hợp đồng EPC của dự án.
+ Thực hiện các giải pháp về tài chính, ngân hàng trên cơ sở đảm bảo các nguyên tắc thị trường, chia sẻ rủi ro kinh doanh giữa các chủ đầu tư với các ngân hàng và tổ chức tín dụng theo Luật các tổ chức tín dụng 2010.
+ Các Tập đoàn, Tổng công ty và Chủ đầu tư dự án phải tăng cường công tác quản lý và thực hiện các biện pháp tiết giảm chi phí sản xuất (chi phí quản lý, nhân công, nguyên nhiên vật liệu đầu vào…), nâng cao hiệu quả quản trị doanh nghiệp để giảm lỗ và tiến tới có lãi trong tương lai.
+ Các Bộ, ngành liên quan cần sớm triển khai thực hiện các giải pháp để tạo thị trường, thúc đẩy sản xuất trong nước thông qua các cơ chế và chính sách như: thúc đẩy lộ trình nhiên liệu sinh học, nghiên cứu khả năng áp dụng hàng rào kỹ thuật đối với một số sản phẩm nhập khẩu (như phân bón, thép), sửa đổi Luật thuế 71/2014/QH13 theo hướng cho phép áp thuế VAT đối với các sản phẩm phân bón... và đảm bảo nguồn nguyên liệu phục vụ cho sản xuất của các Dự án.
+ Thanh tra Chính phủ, Kiểm toán Nhà nước, Bộ Công an phối hợp với Bộ Công Thương và các cơ quan có liên quan tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra để xử lý trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong việc để xảy ra tình trạng thua lỗ, kém hiệu quả tại các Dự án.
- Một số Phương án xử lý cụ thể đối với từng dự án:
- Đối với 04 Dự án đầu tư sản xuất phân bón:
Phương án xử lý là tiếp tục tập trung thực hiện xử lý các khó khăn, vướng mắc theo các chỉ đạo của Ban Chỉ đạo của Chính phủ, đặc biệt là các giải pháp liên quan tới quản trị doanh nghiệp để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các Dự án. Sau khi đã hoạt động có hiệu quả sẽ thực hiện cổ phẩn hóa, thoái vốn nhà nước khỏi doanh nghiệp (dự kiến sau năm 2018). Riêng dự án Đạm Ninh Bình phải tiến hành xử lý dứt điểm tranh chấp vướng mắc đối với hợp đồng EPC.
- Đối với Dự án Nhà máy sản xuất nhiên liệu sinh học Quảng Ngãi:
Có 2 phương án được xem xét để xử lý đối với Dự án, bao gồm: Phương án 1: Công ty cổ phần Nhiên liệu sinh học dầu khí miền Trung (BSR-BF) chuyển nhượng/thoái vốn tại Công ty và Phương án 2: Tái cơ cấu lại Công ty nhiên liệu sinh học miền Trung. Trên cơ sở cân nhắc kỹ lưỡng các yếu tố: tình hình thực tế, tính pháp lý, tính khả thi…, đề xuất lựa chọn Phương án 1: BSR-BF chuyển nhượng/thoái vốn tại Công ty. Tuy nhiên, trước khi thực hiện phương án, cần phải thực hiện các công việc sau: (1) Tính toán khởi động lại nhà máy; (2) Xử lý dứt điểm các vướng mắc với nhà thầu EPC về hạng mục xử lý nước thải để hoàn thành việc quyết toán Dự án đầu tư xây dựng nhà máy; (3) Thực hiện các biện pháp thúc đẩy tiêu thụ nhiên liệu sinh học thông qua các cơ chế, chính sách của nhà nước.
- Đối với Dự án Nhà máy sản xuất nhiên liệu sinh học Phú Thọ:
Có 4 phương án được xem xét để xử lý đối với Dự án, bao gồm: Phương án 1: Tiếp tục triển khai Dự án với nhà thầu PVC; Phương án 2: Tiếp tục triển khai Dự án, thanh lý hợp đồng với nhà thầu PVC để tìm nhà thầu khác; Phương án 3: Dừng triển khai Dự án, phá sản Công ty và Phương án 4: PVOil Chuyển nhượng/thoái vốn khỏi Dự án. Trên cơ sở cân nhắc kỹ lưỡng các yếu tố: tình hình thực tế, tính pháp lý, tính khả thi…, đề xuất lựa chọn Phương án 4: PVOil Chuyển nhượng/thoái vốn khỏi Dự án.
- Đối với Dự án Nhà máy sản xuất nhiên liệu sinh học Bình Phước:
Có 3 phương án được xem xét để xử lý đối với Dự án, bao gồm: Phương án 1: Tạm dừng nhà máy và vận hành trở lại khi thuận lợi; Phương án 2: Cho thuê tài chính - Bán tài sản và Phương án 3: PVOil chuyển nhượng vốn/thoái vốn khỏi Dự án. Trên cơ sở cân nhắc kỹ lưỡng các yếu tố: tình hình thực tế, tính pháp lý, tính khả thi..., đề xuất lựa chọn Phương án 3: PVOil Chuyển nhượng vốn/thoái vốn khỏi Dự án.
- Đối với Dự án mở rộng sản xuất giai đoạn 2 Nhà máy gang thép Thái Nguyên:
Có 3 phương án được xem xét để xử lý đối với Dự án, bao gồm: Phương án 1: Bán Dự án; Phương án 2: Kêu gọi doanh nghiệp, nhà đầu tư góp vốn đầu tư Dự án và Phương án 3: Thoái vốn nhà nước và tái cơ cấu TISCO. Trên cơ sở cân nhắc kỹ lưỡng các yếu tố: tình hình thực tế, tính pháp lý, tính khả thi…, đề xuất lựa chọn Phương án 3: Thoái vốn nhà nước và tái cơ cấu lại TISCO.
- Đối với Dự án khai thác và tuyển quặng sắt mỏ Quý Xa và nhà máy gang thép Lào Cai:
Đối với Dự án này, phương án xử lý là tập trung xử lý, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc để tiếp tục triển khai, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của Dự án với các giải pháp kèm theo: (1) Tiến hành đàm phán để sửa đổi lại hợp đồng liên doanh và điều lệ Công ty, trên cơ sở đó tiếp tục triển khai hoàn thiện các hạng mục đầu tư và sản xuất kinh doanh của Dự án để nâng cao hiệu quả của toàn Dự án; (2) Thực hiện các biện pháp cải tiến trong quản trị sản xuất kinh doanh để tiết giảm chi phí, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và đầu tư trong thời gian tới; đồng thời đẩy nhanh tiến độ xây dựng hoàn thành Dây chuyền cán thép 500.000 tấn/năm.
Trong thời gian tới, Thủ tướng Chính phủ sẽ tiếp tục chỉ đạo Bộ Tư pháp hỗ trợ VTM trong việc đàm phán sửa đổi lại Hợp đồng liên doanh, điều lệ liên doanh.
- Đối với Dự án Nhà máy đầu tư sản xuất sơ xợi polyester Đình Vũ:
Có 3 phương án được xem xét để xử lý đối với Dự án này: Phương án 1: Khởi động lại nhà máy, tái cơ cấu, cổ phần hóa, thoái vốn. Phương án này được thực hiện theo hai kịch bản: (1) Hợp tác với đối tác nước ngoài để sản xuất kinh doanh xơ PSF trong 2 năm và sau đó thoái vốn hoặc (2) tự vận hành sản xuất kinh doanh; Phương án 2: PVTex chuyển nhượng Công ty; Phương án 3: Phá sản Công ty theo luật định.
Trên cơ sở cân nhắc kỹ lưỡng các yếu tố: tình hình thực tế, tính pháp lý, tính khả thi…, đề xuất xem xét, lựa chọn Phương án 1: Khởi động lại nhà máy, tái cơ cấu, cổ phần hóa, thoái vốn theo phương thức Hợp tác với đối tác nước ngoài để sản xuất kinh doanh xơ PSF trong 2 năm và sau đó thoái vốn hoặc Phương án 2: PVTex chuyển nhượng Công ty.
- Đối với Công ty TNHH một thành viên công nghiệp tàu thủy Dung Quất (DQS):
Có 3 phương án được xem xét để xử lý đối với doanh nghiệp này, bao gồm: Phương án 1: Chuyển đổi sở hữu Công ty DQS thông qua định giá, bán đấu giá tài sản, công nợ; Phương án 2: Phá sản Công ty DQS theo quy định của pháp luật và Phương án 3: Tiếp tục tái cơ cấu Công ty DQS.
Trên cơ sở cân nhắc kỹ lưỡng các yếu tố: tình hình thực tế, tính pháp lý, tính khả thi..., đề xuất xuất ưu tiên lựa chọn Phương án 2: Phá sản Công ty DQS theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, có xem xét đến Phương án 1: Chuyển đổi sở hữu Công ty DQS thông qua định giá, bán đấu giá tài sản, công nợ nếu tìm được nhà đầu tư đáp ứng đầy đủ các điều kiện thực hiện phương án.
- Đối với Dự án đầu tư sản xuất bột giấy Phương Nam:
Tháng 9 năm 2016, Phó Thủ tướng Chính phủ Vương Đình Huệ đã có ý kiến đồng ý về chủ trương bán đấu giá toàn bộ tài sản cố định và hàng hóa tồn kho của Dự án Nhà máy. Hiện nay, Bộ Công Thương đã thực hiện xong bước thuê tư vấn thẩm định giá khởi điểm, phương án bán đấu giá Dự án và đang chuẩn bị các thủ tục pháp lý để tổ chức bán đấu giá công khai Dự án.
5. Song song với quá trình rà soát, đánh giá, xử lý các dự án như nêu trên, trong thời gian qua, với tinh thần khẩn trương, tập trung xử lý ngay những khó khăn, vướng mắc ở từng dự án theo chỉ đạo chung của Chính phủ và Ban Chỉ đạo, đến nay kết quả bước đầu xử lý ở một số dự án đã có những chuyển biến tích cực, cụ thể như sau:
- Với nhóm các dự án nhà máy sản xuất phân bón: Hiện nay, Nhà máy Đạm Ninh Bình đã vận hành sản xuất trở lại ở mức công suất 85% vào tháng 1 năm 2017 sau gần 6 tháng dừng sản xuất. Các nhà máy đang vận hành sản xuất ổn định với phương án sản xuất kinh doanh được xây dựng theo hướng tăng cường các biện pháp quản trị doanh nghiệp, tiết giảm các chi phí sản xuất để giảm lỗ. Kết quả hoạt động trong quý I năm 2017 của các nhà máy, đặc biệt là nhà máy DAP số 1 - Lào Cai, đạm Hà Bắc đã thực hiện tiết giảm chi phí sản xuất, tiêu hao nguyên nhiên vật liệu đạt và vượt kế hoạch, đồng thời thực tế chi phí biến đổi khi sản xuất các sản phẩm của các nhà máy đã giảm so với trước (DAP 1 - Lào Cai giảm 27%; đạm Hà Bắc giảm 1% và đạm Ninh Bình giảm 6,9%).
- Với nhà máy thép Việt - Trung (VTM): Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh trong tháng 1 và tháng 2 năm 2017 vẫn ghi nhận lỗ. Tuy nhiên, sang tháng 3 năm 2017, tình hình sản xuất kinh doanh của VTM có nhiều tiến bộ rõ rệt, sản lượng sản xuất, tiêu thụ quặng sắt và phôi thép đều tăng cao, chất lượng cải thiện hơn và Công ty đã có lãi 28,4 tỷ đồng, góp phần làm giảm bớt lỗ của quý I năm 2017 xuống còn -39,9 tỷ đồng trên tổng doanh thu đạt 1.165,5 tỷ đồng (bằng 140% so với cùng kỳ năm 2016). Mức lỗ này so với cùng quý I năm 2016 (lỗ 272,25 tỷ đồng) đã giảm 85%.
- Với Dự án mở rộng giai đoạn 2 nhà máy gang thép Thái Nguyên: Với sự chỉ đạo quyết liệt của Thủ tướng Chính phủ, Trưởng Ban Chỉ đạo, các cơ quan đơn vị đã phối hợp với Tổng công ty cổ phần Thép Việt Nam và Hội đồng quản trị Công ty cổ phần gang thép Thái Nguyên (TISCO) hoàn tất việc rút 1.000 tỷ đồng vốn góp của Tổng công ty Đầu tư kinh doanh vốn nhà nước (SCIC) khỏi Dự án theo đúng quy định của pháp luật để bảo toàn một phần vốn góp nhà nước tại Dự án này.
6. Đối với tất cả các dự án nêu trên, Ban Chỉ đạo xác định mục tiêu, quan điểm, nguyên tắc chung trong chỉ đạo xử lý là:
Về mục tiêu:
- Xây dựng và tổ chức thực hiện các giải pháp xử lý để sớm chấm dứt tình trạng thua lỗ hoặc hạn chế tối đa thiệt hại cho Nhà nước. Cụ thể, trong năm 2017, hoàn thành được phương án trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt; tổ chức triển khai, tạo chuyển biến về hoạt động và tài chính của các Dự án. Phấn đấu đến hết năm 2018 tạo được chuyển biến căn bản trong xử lý tồn tại, yếu kém ở các Dự án;
- Xác định rõ trách nhiệm và xử lý nghiêm đối với các tổ chức, cá nhân có sai phạm trong quá trình đầu tư, vận hành, khai thác các Dự án thua lỗ, kém hiệu quả, trên cơ sở đó hoàn thiện cơ chế, chính sách pháp luật của nhà nước trong lĩnh vực đầu tư xây dựng.
Về quan điểm:
- Kiên quyết xử lý các Dự án thua lỗ, kém hiệu quả theo nguyên tắc và cơ chế thị trường; nhà nước không tiếp tục cấp thêm tiền vào các Dự án.
- Tập trung thực hiện tái cơ cấu các Dự án, ưu tiên các phuơng án bán/chuyển nhượng/thoái vốn, đồng thời xem xét thực hiện phá sản/giải thể các doanh nghiệp/dự án không có điều kiện phục hồi theo qui định của pháp luật.
- Kiên quyết xử lý các Dự án, không để kéo dài gây hệ lụy cho nền kinh tế nhưng phải trên nguyên tắc thận trọng, đúng qui định của pháp luật, bảo đảm lợi ích cao nhất của nhà nước, người lao động, an sinh - xã hội, an ninh - quốc phòng, môi trường.
- Bảo đảm công khai, minh bạch, tăng cường trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu trong quá trình thực hiện các chủ trương, giải pháp xử lý các Dự án. Tiến hành thanh tra, kiểm tra, kiểm toán để xác định và xử lý trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân.
- Bảo đảm phối hợp đồng bộ giữa các Bộ ngành, địa phương, tập đoàn, tổng công ty, doanh nghiệp. Thực hiện đồng bộ các giải pháp, bao gồm các giải pháp về thể chế, chính sách, tăng cường quản trị doanh nghiệp.
7. Ngoài việc rà soát 12 Dự án nêu trên, trong thời gian tới Bộ Công Thương sẽ tiếp tục rà soát các dự án đầu tư trong ngành có nguy cơ kém hiệu quả kinh tế, từ đó có giải pháp phù hợp, kịp thời để tránh thiệt hại cho Nhà nước, tạo hiệu quả và đóng góp tích cực vào phát triển chung của kinh tế đất nước.
Nguồn: Cổng Thông tin điện tử Bộ Công Thương