(VINANET) – Kết thúc năm 2013, Việt Nam đã nhập khẩu từ thị trường Trung Quốc 36,9 tỷ USD, tăng 28,28% so với năm 2012. Bước sang năm 2014, cụ thể là 4 tháng đầu năm nay, Việt Nam cũng đã nhập khẩu từ thị trường này 12,4 tỷ USD, tăng 19,32% so với cùng kỳ năm 2013.
Việt Nam nhập khẩu từ Trung Quốc chủ yếu các nguồn nguyên phụ liệu để sản xuất, cụ thể như máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng; điện thoại các loại và linh kiện, vải, sản phẩm điện tử và linh kiện, sắt thép các loại, nguyên phụ liệu dệt may, da giày…
Trong 4 tháng đầu năm 2014, mặt hàng máy móc thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác có kim ngạch nhập khẩu cao nhất, chiếm 18,4% tổng kim ngạch, đạt 2,3 tỷ USD, tăng 34,84%; kế đến là điện thoại các loại và linh kiện, đạt 1,8 tỷ USD, tăng 19,70% và vải các loại đạt 1,3 tỷ USD, tăng 28,36% so với cùng kỳ năm trước…Như vậy, trong 4 tháng đầu năm, bốn mặt hàng Việt Nam nhập khẩu từ thị trường Trung Quốc có kim ngạch trên 1 tỷ USD đó là máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng; điện thoại các loại và linh kiện, vải và máy vi tính sản phẩm điện tử và linh kiện, kim ngạch của 4 chủng loại mặt hàng này chiếm 54,9%, đạt kim ngạch 6,8 tỷ USD.
So với cùng kỳ năm 2013, thì 4 tháng đầu năm nay, Việt Nam nhập khẩu từ thị trường Trung Quốc có thêm mặt hàng than đá, thủy tinh và các sản phẩm từ thủy tinh, máy ảnh máy quay phim và linh kiện, quặng và khoáng sản khác, chất thơm mỹ phẩm và chế phẩm vệ sinh, chế phẩm thực phẩm khác với kim ngạch đạt lần lượt 35,1 triệu USD; 57,8 triệu USD; 215 triệu USD; 26,2 triệu USD; 14,9 triệu USD và 8,9 triệu USD.
Nhìn chung, 4 tháng đầu năm nay, Việt Nam nhập khẩu từ Trung Quốc đều tăng trưởng ở hầu khắp các mặt hàng, số mặt hàng có kim ngạch nhập khẩu tăng trưởng dương chiếm 75%, trong đó mặt hàng bông có kim ngạch nhập khẩu tăng cao nhất, tăng 411,89%, mặc dù kim ngạch chỉ đạt 2,6 triệu USD.
Thống kê sơ bộ của TCHQ về tình hình nhập khẩu từ thị trường Trung Quốc 4 tháng 2014 – ĐVT: USD
|
KNNK 4T/2014
|
KNNK 4T/2013
|
% so sánh
|
Tổng kim ngạch
|
12.449.665.611
|
10.433.418.619
|
19,32
|
máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác
|
2.302.128.910
|
1.707.314.093
|
34,84
|
điện thoại các loại và linh kiện
|
1.878.094.848
|
1.569.053.572
|
19,70
|
vải các loại
|
1.364.099.915
|
1.062.742.570
|
28,36
|
máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện
|
1.295.288.586
|
1.407.846.555
|
-8,00
|
sắt thép các loại
|
847.572.114
|
722.377.763
|
17,33
|
xăng dầu các loại
|
509.590.784
|
389.396.554
|
30,87
|
nguyên phụ liệu dệt, may,da giày
|
466.346.352
|
343.586.049
|
35,73
|
hóa chất
|
293.472.433
|
252.098.743
|
16,41
|
sản phẩm từ sắt thép
|
249.516.709
|
227.205.177
|
9,82
|
sản phẩm từ chất dẻo
|
246.739.004
|
193.087.688
|
27,79
|
sản phẩm hóa chất
|
182.132.964
|
154.313.328
|
18,03
|
xơ sợi dệt các loại
|
170.887.679
|
142.869.763
|
19,61
|
phân bón
|
163.764.054
|
179.361.799
|
-8,70
|
thuốc trừ sâu và nguyên liệu
|
151.638.982
|
120.268.991
|
26,08
|
kim loại thường khác
|
150.905.921
|
169.403.756
|
-10,92
|
chất dẻo nguyên liệu
|
148.965.717
|
122.576.094
|
21,53
|
Dây điện và dây cáp điện
|
125.046.481
|
103.764.370
|
20,51
|
khí đốt hóa lỏng
|
104.771.228
|
97.220.987
|
7,77
|
thức ăn gia súc và nguyên liệu
|
90.621.135
|
57.301.034
|
58,15
|
linh kiện phụ tùng ô tô
|
87.086.248
|
54.808.845
|
58,89
|
oto nguyên chiếc các loại
|
86.672.548
|
38.654.668
|
124,22
|
hàng điện gia dụng và linh kiện
|
71.429.238
|
59.933.457
|
19,18
|
giấy các loại
|
64.036.054
|
38.784.130
|
65,11
|
nguyên phụ liệu dược phảma
|
64.021.031
|
44.985.353
|
42,32
|
gỗ và sản phẩm gỗ
|
62.520.152
|
51.094.215
|
22,36
|
sản phẩm từ giấy
|
54.827.945
|
44.543.285
|
23,09
|
sản phẩm từ cao su
|
47.807.465
|
38.564.776
|
23,97
|
sản phẩm từ kim loại thường khác
|
47.134.296
|
40.377.001
|
16,74
|
hàng rau quả
|
37.937.282
|
40.311.823
|
-5,89
|
sản phẩm khác từ dầu mỏ
|
33.332.957
|
43.084.371
|
-22,63
|
đá quý,kim loại quý và sản phẩm
|
21.116.156
|
9.189.725
|
129,78
|
dược phẩm
|
15.861.632
|
15.111.264
|
4,97
|
cao su
|
11.786.500
|
10.063.458
|
17,12
|
phương tiện vận tải khác và phụ tùng
|
11.728.301
|
5.944.960
|
97,28
|
nguyên phụ liệu thuốc lá
|
10.698.496
|
13.644.801
|
-21,59
|
Hàng thuỷ sản
|
10.037.136
|
8.294.537
|
21,01
|
bánh kẹo và các sản phẩm từ ngũ cốc
|
3.225.136
|
2.718.346
|
18,64
|
bông các loại
|
2.657.042
|
519.068
|
411,89
|
dầu mỡ động thực vật
|
975.428
|
957.791
|
1,84
|
Trung Quốc – là một thị trường lớn xuất và nhập khẩu của Việt Nam. Để không quá phụ thuộc quá vào thị trường lớn này chủ động giảm nguồn cung nguyên liệu từ Trung Quốc.
Để có đủ lực nhằm bảo đảm tự chủ trong sản xuất hàng hóa, cần phải kêu gọi ngoại lực và mở nhiều “cửa ra, cửa vào” cho hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam.
Nhiều năm qua, nhập khẩu vải, thép của Việt Nam (VN) luôn cao, trong đó nhập chính từ Trung Quốc (TQ). Trong trung hạn và dài hạn, vượt qua sự phụ thuộc vào hàng nhập khẩu TQ là một bài toán đặc biệt quan trọng.
Liên kết với nhà đầu tư nước ngoài
Nhận diện về thực trạng nhập khẩu ngành dệt may, Phó Chủ tịch Hiệp hội Bông sợi VN, cho biết ngành may VN nhập trên 80% vải, trong đó 50% phải nhập từ TQ. Một vị nguyên lãnh đạo của Tập đoàn Dệt may VN cho biết về chiến lược lâu dài, phải tính đến đầu tư sản xuất tại VN. Chính phủ cần tính đến phương án lập khu công nghiệp chuyên về dệt, nhuộm, đồng thời các doanh nghiệp (DN) cũng phải ý thức chuyện nâng cao năng lực và đổi mới công nghệ.
Tuy nhiên, để đầu tư một nhà máy kéo sợi hay dệt, nhuộm đòi hỏi vốn lớn, thiết bị và công nghệ hiện đại hơn… và chỉ có những tập đoàn lớn mới đủ sức thực hiện. Bằng chứng là mỗi năm VN cần 6 tỉ mét vải nhưng DN nội chỉ đáp ứng được hơn 1 tỉ mét. Vì vậy, liên kết với các đối tác nước ngoài là một hướng đi để nhanh chóng tạo ra được nguyên phụ liệu sản xuất tại chỗ cho ngành dệt may. Muốn thế, Nhà nước cần có chính sách thu hút nhà đầu tư nước ngoài, kêu gọi những DN có sẵn công nghệ, rành rẽ về thời trang. Hiện nay đã có nhiều DN dệt may VN liên doanh với DN Nhật, EU sản xuất sản phẩm cao cấp, thành lập chuỗi giá trị dệt may bền vững.
Tương tự ngành dệt may, Phó Chủ tịch Hiệp hội Thép VN (VSA), thì ngành thép VN cũng chủ yếu nhập khẩu từ TQ. Bình quân mỗi năm trên 3 triệu tấn, trong đó phần lớn là thép cuộn cán nóng bởi hiện nay VN chưa có nhà máy sản xuất. Cái khó nhất của ngành thép là cần đến nhà máy sản xuất từ quặng sắt, trong khi đó hiện nay VN mới chỉ đang xây dựng Nhà máy thép Formosa (Hà Tĩnh).
Đồng tình quan điểm trên, nguyên Phó Chủ tịch VSA, tiết lộ: Nước ta không có công nghệ lò cao không thể sản xuất được. Nước ta lúc trước cũng nhập công nghệ lò cao nhưng nhập phải thiết bị cũ, công suất thấp, sản xuất ra giá thành cao không đủ cạnh tranh với thép nhập khẩu. Giải pháp tốt nhất hiện nay vẫn là đầu tư đúng mức, có trọng điểm vào các dự án khai thác mỏ, các dự án sản xuất phôi từ quặng, tránh đầu tư dàn trải. Đặc biệt là chấm dứt đầu tư các dự án cán thép không đi liền với dây chuyền sản xuất phôi. Cần phát triển ngành khai khoáng, tạo tiền đề cho ngành công nghiệp luyện cán thép. Nếu DN không đủ lực thì hợp tác cùng nhau góp vốn, góp sức đầu tư, phải đầu tư công nghệ thiết bị hiện đại thì mới chủ động được sản xuất, khai thác tốt thị trường. Về lâu dài, theo đại diện VSA, DN VN sẽ phải cố gắng tự sản xuất, đổi mới công nghệ, tăng năng lực cạnh tranh để xây dựng các nhà máy quy mô lớn.
Một cán bộ Hiệp hội Dệt may VN cho rằng sở dĩ VN nhập siêu dệt may từ TQ là bởi DN trong nước khó đáp ứng nổi nguyên phụ liệu. Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Bình Dương, Tổng Giám đốc Công ty May mặc Bình Dương, cho biết tại Bình Dương, đa số DN dệt may là DN có vốn đầu tư nước ngoài và họ không tính chuyện xoay trở nguồn cung nguyên phụ liệu.
Còn các DN VN thì cần phải tính đến điều này. Ví dụ, Công ty May mặc Bình Dương trước đây nhập nguyên phụ liệu từ TQ đến 80%, công ty đã tìm cách chuyển hướng nhập từ nhiều nguồn khác như Nhật, Indonesia, Thái Lan, đến nay nguyên phụ liệu TQ chỉ khoảng 20% mà thôi.
Chia sẻ kinh nghiệm về đa dạng nguồn nguyên liệu, Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Bình Dương cho biết DN phải săn lùng và đàm phán mới tìm được nhà cung cấp hàng có chất lượng tương đương, giá tương đương như nguồn TQ.
Thứ hai, khi thay đổi nguyên phụ liệu thì phải thuyết phục được khách hàng mua hàng của mình để họ chấp nhận nguồn mới. Mình phải làm mẫu cho họ thử, họ kiểm tra, thương lượng với họ, thường mất 6-9 tháng, rồi thì họ sẽ đồng ý vì bản thân họ cũng muốn giảm rủi ro khi nguồn nguyên liệu tập trung ở một nguồn TQ.
Thứ ba, vì các nguồn cung mới thường ở xa hơn TQ nên thời gian chở hàng về VN lâu hơn, ví dụ hàng Indonesia mất 2-3 tuần mới về đến, trong khi hàng TQ chưa đến một tuần. Do đó, DN phải thay đổi cách thức, thời gian đặt hàng cho phù hợp tiến độ sản xuất và chỉ có thể áp dụng cho những sản phẩm ổn định về nguồn nguyên liệu, thời gian giao hàng mà thôi.
Nguồn:Vinanet/Báo pháp luật Tp.Hồ Chí Minh