(VINANET) Theo số liệu thống kê, tháng 7/2014 xuất khẩu hàng dệt may của cả nước đạt 2,15 tỷ USD, tăng 13,49% so với tháng 6, đưa kim ngạch xuất khẩu dệt may cả 7 tháng đầu năm 2014 lên 11,5 tỷ USD, tăng 18,52% so với cùng kỳ năm 2013. Như vậy, dệt may là nhóm hàng đứng thứ 2 về kim ngạch xuất khẩu của cả nước, chỉ đứng sau nhóm hàng điện thoại và linh kiện và dẫn đầu về kim ngạch xuất khẩu trong nhóm ngành công nghiệp chế biến.
Hàng dệt may của Việt Nam xuất khẩu nhiều nhất sang Hoa Kỳ, riêng thị trường này chiếm tới 48,36% tổng kim ngạch, với 5,56 tỷ USD, tăng 14,21% so với 7 tháng đầu năm ngoái.
Đứng thứ 2 về kim ngạch là thị trường Nhật Bản chiếm 12,26%, với 1,41 tỷ USD, tăng 12,31%; tiếp đến Hàn Quốc chiếm 8,02%, đạt 921,7 triệu USD, tăng 36,69%; Đức chiếm 3,9%, đạt 448,84 triệu USD, tăng 26,34%; Tây Ban Nha chiếm 3,46%, đạt 398,26 triệu USD, tăng 49,27%.
Nhìn chung, xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam trong 7 tháng đầu năm nay sang hầu hết các thị trường đều tăng trưởng dương về kim ngạch so với cùng kỳ năm ngoái; trong đó đáng chú ý là xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Chi Lê mặc dù chỉ đạt 54,88 triệu USD, nhưng so với cùng kỳ thì tăng mạnh tới 252,41%; bên cạnh đó là một số thị trường cũng đạt mức tăng trưởng xuất khẩu mạnh như: sang U.A.E (+69,82%), Nigieria (+69,16%), Phần Lan (+53,28%), Ba Lan (+53,28%), Gana (+51,99%).
Số liệu Hải quan xuất khẩu hàng dệt may 7 tháng năm 2014. ĐVT: USD
Thị trường
|
T7/2014
|
7T/2014
|
T7/2014 so với T6/2014
(%)
|
7T/2014 so với cùng kỳ(%)
|
Tổng kim ngạch XK hàng dệt may
|
2.145.662.981
|
11.498.950.294
|
+13,49
|
+18,52
|
Vải các loại
|
64.762.055
|
442.065.992
|
-2,98
|
*
|
Hoa Kỳ
|
1.002.521.237
|
5.560.849.509
|
+12,19
|
+14,21
|
Nhật Bản
|
243.530.895
|
1.410.012.303
|
+18,93
|
+12,31
|
Hàn Quốc
|
178.034.057
|
921.700.663
|
+44,78
|
+36,69
|
Đức
|
89.078.345
|
448.841.754
|
+0,32
|
+26,34
|
Tây Ban Nha
|
98.519.205
|
398.259.701
|
+25,93
|
+49,27
|
Anh
|
68.022.996
|
313.129.940
|
+24,85
|
+21,22
|
Canada
|
59.234.996
|
279.690.351
|
+5,76
|
+33,96
|
Trung Quốc
|
54.946.700
|
255.389.717
|
+20,02
|
+44,16
|
Hà Lan
|
51.045.912
|
209.809.761
|
+5,26
|
+40,00
|
Bỉ
|
24.312.428
|
113.043.529
|
+22,35
|
+21,13
|
Italia
|
21.235.013
|
110.982.012
|
-19,55
|
+37,69
|
Đài Loan
|
19.934.993
|
106.643.489
|
+68,47
|
+2,17
|
Pháp
|
20.505.035
|
106.448.332
|
-5,07
|
+2,37
|
Hồng Kông
|
18.718.389
|
96.584.884
|
+7,15
|
+34,25
|
Nga
|
14.665.636
|
88.621.238
|
-33,96
|
+15,20
|
Campuchia
|
11.172.712
|
81.553.662
|
-1,98
|
+1,20
|
Australia
|
14.713.598
|
73.864.845
|
+33,50
|
+47,82
|
Tiểu VQ Arập TN
|
10.982.743
|
66.680.694
|
-13,22
|
+69,82
|
Mehico
|
11.048.242
|
63.386.254
|
-9,02
|
+37,75
|
Chi Lê
|
19.447.957
|
54.881.507
|
+44,40
|
+252,41
|
Đan Mạch
|
9.052.814
|
48.297.954
|
+7,51
|
-5,89
|
Indonesia
|
4.502.417
|
47.742.621
|
-35,27
|
-9,29
|
Thụy Điển
|
7.969.620
|
45.448.580
|
-8,63
|
+7,98
|
Thổ Nhĩ Kỳ
|
8.476.248
|
40.353.867
|
+22,53
|
-1,00
|
Braxin
|
7.395.444
|
38.388.767
|
+37,03
|
+40,43
|
Malaysia
|
5.111.487
|
33.683.727
|
-9,72
|
+15,43
|
Ả Râp Xê Út
|
4.598.524
|
31.431.438
|
-3,64
|
-24,15
|
Ba Lan
|
4.735.513
|
27.559.265
|
+1,01
|
+53,28
|
Singapore
|
4.975.745
|
26.523.766
|
-6,32
|
+21,29
|
Thái Lan
|
3.210.049
|
23.514.523
|
-5,09
|
-17,08
|
Philippin
|
3.918.472
|
21.291.814
|
-5,68
|
+26,89
|
Bờ biển Ngà
|
300.589
|
16.028.153
|
-84,63
|
*
|
Nigieria
|
37.495
|
14.921.159
|
-78,10
|
+69,16
|
Bangladesh
|
1.946.193
|
14.805.118
|
+27,19
|
+8,02
|
Nam Phi
|
2.014.173
|
13.288.812
|
+22,07
|
+24,23
|
Nauy
|
1.788.416
|
12.802.454
|
-43,75
|
+7,70
|
Panama
|
2.427.204
|
12.670.193
|
+107,36
|
-33,40
|
Ấn Độ
|
1.091.423
|
11.667.499
|
+7,35
|
-24,72
|
Séc
|
-
|
10.425.585
|
*
|
-38,28
|
Achentina
|
2.437.289
|
9.898.107
|
+76,28
|
+11,15
|
Israel
|
1.796.667
|
9.525.068
|
+19,05
|
-1,29
|
Phần Lan
|
2.653.192
|
9.496.629
|
+3,87
|
+63,03
|
Myanma
|
916.974
|
8.394.073
|
-10,20
|
+20,12
|
New Zealand
|
1.113.042
|
8.095.273
|
+51,58
|
+7,77
|
Áo
|
1.684.951
|
8.083.387
|
+3,92
|
-50,71
|
Thụy Sỹ
|
1.400.365
|
7.425.482
|
-22,77
|
-1,27
|
Senegal
|
5.027.435
|
7.248.633
|
+19174,76
|
*
|
Angola
|
464.175
|
5.716.365
|
-65,96
|
-29,17
|
Hungary
|
148.008
|
5.044.603
|
-71,32
|
+2,22
|
Lào
|
615.983
|
4.820.286
|
-35,45
|
-3,30
|
Ucraina
|
634.318
|
4.593.611
|
-37,80
|
-43,32
|
Ai cập
|
369.818
|
3.311.569
|
-22,33
|
-11,32
|
Slovakia
|
510.600
|
3.279.243
|
+279,74
|
-57,57
|
Hy Lạp
|
926.739
|
2.840.679
|
+355,09
|
-44,45
|
Gana
|
104.581
|
273.276
|
*
|
+51,99
|
Tuy nhiên, Hiệp hội Dệt may Việt Nam cho rằng dù có kim ngạch xuất khẩu cao nhưng giá trị gia tăng của ngành khá khiêm tốn. Nguyên nhân do là ngành phải nhập quá nhiều nguyên phụ liệu cho sản xuất khi chỉ chủ động được 1% nhu cầu bông, 20,2% nhu cầu vải. Riêng với nguyên liệu sợi, ngành dệt may có năng lực sản xuất 6 triệu cọc sợi mỗi năm nhưng do chất lượng không đạt yêu cầu nên chỉ 30% sản lượng sợi được sử dụng cho sản xuất.
Ngành dệt may Việt Nam cũng tham gia vào chuỗi cung ứng dệt may toàn cầu một cách bị động, sản xuất gia công là chủ yếu, thiếu đội ngũ thiết kế mẫu mã sản phẩm. Bản thân các doanh nghiệp sản xuất hàng gia công cũng rất thụ động trong việc tìm kiếm khách hàng, mở rộng thị trường.…
Có thể thấy, ngành dệt may Việt Nam đang tồn tại một khoảng cách lớn giữa giá trị xuất khẩu và giá trị gia tăng. Dưới áp lực của các hiệp định thương mại sắp được ký kết, ngành đang nỗ lực tìm mọi cách phát triển nguồn cung nguyên phụ liệu trong nước, thay đổi phương thức sản xuất, đây cũng chính là giải pháp nâng “chất” cho sản phẩm dệt may xuất khẩu .
Ngành sản xuất nguyên phụ liệu dệt may đang hút một lượng vốn đầu tư khổng lồ từ các công ty, tập đoàn lớn trong lĩnh vực dệt may thế giới như: Jiangyin Zhenxin (Trung Quốc), Texhong (Hong Kong), Kyung Bang (Hàn Quốc).…
Không kém cạnh về quy mô và tốc độ đầu tư, các doanh nghiệp trong nước cũng đang dốc vốn cho các dự án phát triển nguồn cung nguyên phụ liệu. Riêng Tập đoàn Dệt may Việt Nam từ đầu năm tới nay đã triển khai 32 dự án, bao gồm: 9 dự án sợi, 11 dự án dệt nhuộm, 12 dự án may. Năng lực của tập đoàn theo đó cũng tăng thêm 600 tấn sợi/tháng, 400 tấn vải dệt nhuộm/tháng và 2 triệu sản phẩm may/tháng.
Cùng với đó, cộng đồng doanh nghiệp ngành dệt may cũng đang nỗ lực đổi mới phương thức sản xuất, hướng dần tới những phương thức sản xuất hiện đại hơn, mang lại giá trị gia tăng cao hơn.
Thủy Chung
Nguồn: Vinanet