Kim ngạch xuất khẩu thủy sản tháng 3/2012 tiếp tục tăng 27,88% so với tháng trước đó, đạt 540,17 triệu USD; đưa tổng kim ngạch cả quí I lên 1,3 tỷ USD, tăng 13,84% so với cùng kỳ năm ngoái. Xuất khẩu thủy sản chiếm 5,25% trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa cả nước. Theo dự báo XK thủy sản năm nay sẽ đạt 6,5 tỉ USD.
Trong tháng 3, xuất khẩu thủy sản sang phần lớn các thị trường đều tăng trưởng dương so với tháng trước đó, đáng chú ý là tất cả các thị trường lớn đều đạt mức tăng kim ngạch như: xuất sang Hoa Kỳ tăng 38,78%, xuất sang Nhật Bản tăng 38,76%, xuất sang Hàn Quốc tăng 63,66%, xuất sang Trung Quốc tăng 36,22%
Tính chung trong cả quí I/2012 Hoa Kỳ vẫn là thị trường tiêu thụ nhiều nhất thủy sản của Việt Nam, chiếm 18,72% tổng kim ngạch, với 243,91 triệu USD, tăng 17,36% so cùng kỳ; thứ 2 là thị trường Nhật Bản chiếm 17,02%, đạt 221,68 triệu USD, tăng 30,54%; thứ 3 là Hàn Quốc 109,27 triệu USD, chiếm 8,39%, tăng 23,87%; sau đó là Trung Quốc 48,27 triệu USD, chiếm 3,71%, tăng 13,02% so cùng kỳ năm ngoái.
Trong quý 1/2012, xuất khẩu cá ngừ tăng 23,1%, nhuyễn thể nói chung tăng 19,4%, cá tra tăng 15,2%... nhưng mặt hàng tôm vốn được xem là chủ lực của thủy sản Việt Nam chỉ tăng nhẹ 4,5% so với cùng kỳ năm ngoái, thậm chí trong nửa đầu tháng 3/2012 còn giảm 2,4%.
Xuất khẩu tôm tăng quá thấp là do nhiều thị trường lớn như Mỹ, EU liên tục sụt giảm về giá trị xuất khẩu từ đầu năm cho đến nay. Trong đó, EU có mức sụt giảm lớn nhất, lên tới 21%, Canada giảm 6,1%, Mỹ giảm gần 1%. Do tình trạng khủng hoảng tài chính đã khiến cho sức mua ở nhiều thị trường Âu, Mỹ bị suy giảm, giá bán cũng giảm. Cuối tháng 3, giá tôm thẻ chân trắng ở Mỹ chỉ còn 3,92 đô la/pound, tôm sú là 7,22 đô la/pound, thấp hơn nhiều so với mức 4,4 đô la/pound và 7,4 đô la/pound đầu năm 2011. Bên cạnh đó, sản lượng tôm nuôi ở các nước Trung Mỹ, Ấn Độ, sản lượng tôm khai thác ở Vịnh Mexico tăng cao cũng đã ảnh hưởng tới xuất khẩu tôm Việt Nam sang Bắc Mỹ, EU …
VASEP cho rằng, nhu cầu tiêu thụ tôm tại EU trong năm nay không thật sự khả quan do nền kinh tế của nhiều nước châu Âu còn khó khăn sau khủng hoảng. Tuy nhiên, trong sự sụt giảm đó, Nhật Bản vẫn là thị trường lớn nhất của tôm Việt Nam tính đến nửa đầu tháng 3/2012 khi đạt mức tăng tăng 7,3% về kim ngạch so cùng kỳ năm 2011, tương đương với 82,637 triệu đô la, chiếm 25,1% tổng kim ngạch.
Bên cạnh đó, châu Á cũng nổi lên như là một thị trường đầy hứa hẹn cho con tôm Việt Nam, nhờ những yếu tố như nhu cầu tiêu thụ cao, khả năng thanh toán tốt, có lợi thế về vị trí địa lý...Cụ thể, từ đầu năm đến giữa tháng 3/2012 giá trị xuất khẩu tôm sang Trung Quốc và Hồng Kông đạt 38,826 triệu đô la, tăng 11,4%, sang Hàn Quốc đạt 26,111 triệu đô la, tăng 45,4%, sang các nước ASEAN đạt 6,73 triệu đô la, tăng 14,9%... Trong năm nay, nhu cầu tiêu thụ tôm tại nhiều thị trường châu Á như Nhật Bản, Trung Quốc và Hàn Quốc vẫn cao.
Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP), tính đến giữa tháng 3/2012, giá trị xuất khẩu cá ngừ của Việt Nam đạt 101 triệu đô la Mỹ, tăng 23,1% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong đó, hai thị trường có mức tăng trưởng nổi bật nhất là Tuynidi và Xuđăng. Thị trường Tuynidi đã có nhiều bất ngờ với tốc độ tăng trưởng lên tới ba con số, hơn 809%. Đối với thị trường Xuđăng, chỉ tính riêng trong tháng 1/2012, giá trị xuất khẩu cá ngừ của Việt Nam sang thị trường này đã lớn hơn tổng giá trị xuất khẩu cá ngừ sang nước này trong cả năm ngoái với tốc độ tăng trưởng lên đến 356,6%. Điều này đã đưa Xuđăng trở thành một trong mười thị trường nhập khẩu nhiều cá ngừ của Việt Nam, trong đó chủ yếu là cá ngừ đóng hộp. Các thị trường chính của cá ngừ Việt Nam như EU, Nhật Bản, Thụy Sỹ, Israel... cũng đạt mức tăng trưởng khả quan, lần lượt tương ứng là 36,7%, 90,6%, 96,6%, 95,6%.
Giá trị xuất khẩu cá tra của Việt Nam từ đầu năm đến giữa tháng 3-2012 đạt 336 triệu USD, tăng 15,2% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong đó, thị trường Trung Quốc tăng trưởng mạnh nhất, 93,5% tương ứng 14 triệu USD, thị trường Mỹ tăng 47,9% tương ứng 60,6 triệu USD.
Thị trường xuất khẩu thủy sản của Việt Nam quí I/2012
Thị trường
|
T3/2012
|
3T/2012
|
%Tăng, giảm T3/2012 so với T2/2012
|
%Tăng, giảm T3/2012 so với T3/2011
|
%Tăng, giảm 3T/2012 so với cùng kỳ
|
Tổng cộng
|
540.169.117
|
1.302.713.637
|
+27,88
|
+17,08
|
+13,84
|
Hoa Kỳ
|
108.141.361
|
243.905.043
|
+38,78
|
+29,39
|
+17,36
|
Nhật Bản
|
94.983.874
|
221.681.208
|
+38,76
|
+46,90
|
+30,54
|
Hàn Quốc
|
47.291.933
|
109.271.676
|
+63,66
|
+23,44
|
+23,87
|
Trung Quốc
|
22.073.307
|
48.272.206
|
+36,22
|
+30,51
|
+13,02
|
Đức
|
16.011.278
|
42.384.362
|
+9,23
|
-28,82
|
-24,98
|
Australia
|
14.315.533
|
36.776.847
|
+0,46
|
+43,57
|
+40,13
|
Mexico
|
7.578.413
|
35.892.914
|
-50,91
|
-42,06
|
+19,66
|
Tây Ban Nha
|
13.806.531
|
33.417.656
|
+17,39
|
+6,22
|
-0,35
|
Hà Lan
|
15.517.791
|
32.982.519
|
+62,24
|
-2,60
|
-2,81
|
Italia
|
12.805.658
|
32.078.511
|
+17,48
|
-16,68
|
-9,84
|
Canada
|
11.303.728
|
30.682.912
|
+15,64
|
+0,72
|
+5,53
|
Hồng Kông
|
11.456.811
|
29.567.371
|
+4,34
|
+8,20
|
+29,38
|
Pháp
|
10.907.131
|
25.952.678
|
+41,34
|
+20,77
|
+10,21
|
Thái Lan
|
12.421.225
|
24.472.791
|
+111,64
|
+50,85
|
+39,01
|
Đài Loan
|
10.634.531
|
23.335.646
|
+34,01
|
+19,99
|
+9,36
|
Anh
|
8.811.100
|
23.179.525
|
+8,31
|
-10,50
|
-7,15
|
Nga
|
10.009.752
|
22.567.267
|
+80,28
|
-11,82
|
-8,76
|
Bỉ
|
8.165.181
|
19.662.405
|
+33,57
|
-12,55
|
-11,48
|
Singapore
|
7.070.923
|
19.286.655
|
+3,13
|
+4,88
|
+5,89
|
Colômbia
|
5.567.983
|
16.309.527
|
+28,36
|
*
|
*
|
Ai Cập
|
8.244.538
|
16.290.281
|
+67,46
|
+378,10
|
+142,76
|
Braxin
|
3.840.131
|
16.195.119
|
-30,04
|
*
|
*
|
Tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất
|
6.131.593
|
12.548.706
|
+65,42
|
+50,66
|
+30,95
|
Ả Rập Xê út
|
5.456.848
|
12.222.702
|
+23,36
|
+19,03
|
-2,64
|
Thuỵ Sĩ
|
5.570.305
|
11.165.741
|
+48,78
|
+45,68
|
+16,13
|
Malaysia
|
4.853.994
|
11.069.381
|
+23,21
|
+8,55
|
+17,64
|
Ba Lan
|
2.632.487
|
9.734.133
|
-37,28
|
-48,90
|
-32,29
|
Philippines
|
4.506.283
|
8.531.964
|
+83,00
|
+30,91
|
+7,56
|
Bồ Đào Nha
|
3.376.338
|
8.443.691
|
+28,48
|
+46,25
|
+3,54
|
Ucraina
|
3.412.285
|
8.257.459
|
+2,82
|
-23,07
|
+7,34
|
Đan Mạch
|
2.698.567
|
6.581.207
|
+11,47
|
-23,65
|
+7,27
|
Hy Lạp
|
2.261.858
|
6.499.783
|
+14,53
|
+78,06
|
+31,74
|
Israen
|
2.121.603
|
6.187.252
|
-6,29
|
*
|
*
|
Pakistan
|
1.609.263
|
4.544.877
|
+3,72
|
*
|
*
|
Ấn Độ
|
607.049
|
4.076.922
|
-70,81
|
*
|
*
|
Thuỵ Điển
|
1.259.529
|
3.341.245
|
+26,69
|
+3,48
|
-7,07
|
Campuchia
|
1.217.432
|
3.017.291
|
+11,11
|
+34,69
|
+7,67
|
NewZealand
|
1.082.288
|
3.000.078
|
+37,81
|
*
|
*
|
Rumani
|
573.375
|
2.777.150
|
-29,30
|
*
|
*
|
Indonesia
|
654.305
|
2.528.969
|
-58,36
|
-55,65
|
-37,11
|
Séc
|
620.014
|
2.237.587
|
-46,02
|
-38,30
|
-20,46
|
Cô Oét
|
918.763
|
2.018.360
|
+15,07
|
-15,49
|
+8,82
|
Thổ Nhĩ Kỳ
|
594.324
|
1.017.733
|
+78,51
|
*
|
*
|
I rắc
|
246.296
|
938.630
|
+68,74
|
*
|
*
|
Brunei
|
154.828
|
453.784
|
-31,78
|
-38,32
|
+16,85
|
(vinanet-T.T)