Theo số liệu từ TCHQ Việt Nam, 5 tháng đầu năm 2012, Việt Nam đã xuất khẩu 5,3 tỷ USD hàng hóa sang thị trường Nhật Bản – là thị trường đạt kim ngạch chỉ đứng thứ hai 2 sau Hoa Kỳ, tăng 45,55% so với cùng kỳ năm 2011. Tính riêng trong tháng 5, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường này đạt trên 1 tỷ USD và cũng là thị trường đứng thứ 2 có kim ngạch đạt cao trong tháng.

Các mặt hàng Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản trong thời gian này là dầu thô, hàng dệt may, phương tiện vận tải, máy móc thiết bị dụng cụ phụ tùng, hàng thủy sản, gỗ và sản phẩm… đây cũng chính là những mặt hàng đạt kim ngạch trên 100 triệu USD tính từ đầu năm cho đến hết tháng 5/2012.

Dẫn đầu về kim ngạch là mặt hàng dầu thô với 1,2 tỷ USD, chiếm 22,7% tỷ trọng, tăng 147,45% so với 5 tháng năm 2011.

Đứng thứ hai là mặt hàng dệt may với kim ngạch 722,2 triệu USD, tăng 24,28% so với cùng kỳ năm trước.

Đáng lưu ý mặt hàng xăng dầu có sự tăng trưởng vượt bậc, tăng 11673,99% so với cùng kỳ năm trước, đạt kim ngạch 24,3 triệu USD.

Đối với mặt hàng thủy sản nói chung và cá ngừ nói riêng, thì Nhật Bản là thị trường trọng điểm và đầy tiềm năng của thủy sản Việt Nam, đồng thời là bạn hàng lớn và khá ổn định đối với các sản phẩm cá ngừ Việt Nam trong nhiều năm qua, với giá trị NK khá cao, đứng thứ 3 sau Mỹ và EU. Những năm trước đây, giá trị XK cá ngừ Việt Nam sang Nhật Bản chỉ chiếm chưa đến 10% tổng giá trị XK cá ngừ của cả nước nhưng từ đầu năm nay, Nhật Bản đã vượt qua EU và vươn lên vị trí thứ 2 sau Mỹ về giá trị NK cá ngừ từ Việt Nam, chiếm tới 20% tỷ trọng XK của ngành cá ngừ nước ta.

Nhật Bản là quốc gia có sức tiêu thụ hàng hóa mạnh và là một thị trường lớn đối với hàng thủy sản. Đây là một trong những thị trường NK cá ngừ tươi và đông lạnh lớn nhất thế giới. Do nguồn nguyên liệu cá ngừ khai thác nội địa không đủ đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trong nước ngày càng cao nên Nhật Bản phải NK cá ngừ từ nhiều nguồn khác, trong đó có Việt Nam.

Theo Hải quan Việt Nam, đến giữa tháng 5/2012, giá trị XK cá ngừ Việt Nam sang các thị trường thế giới đạt gần 200 triệu USD, tăng 22,7% so với cùng kỳ năm 2011, riêng giá trị XK sang Nhật Bản đạt gần 34 triệu USD, chiếm 17% tỷ trọng và tăng 52,3%. Đây là mặt hàng có tốc độ tăng trưởng giá trị XK cao trong giai đoạn này, chỉ đứng sau mực và bạch tuộc.

Tuy nhiên, nếu xem xét riêng tháng 4/2012 và nửa đầu tháng 5/2012, Nhật Bản đã giảm giá trị NK cá ngừ Việt Nam lần lượt là 18,3% và 14,5% so với cùng kỳ năm 2011. Phải chăng sự sụt giảm giá trị NK này một phần do ảnh hưởng của việc Nhật Bản tăng cường kiểm tra giám sát an toàn thực phẩm về các chỉ tiêu trên sản phẩm thủy sản XK của Việt Nam?

Thông tin gần đây cho biết. Nhật Bản kiểm tra Ethoxyquin trong tôm Việt Nam với mức giới hạn tối đa 10 ppb (0,01ppm), trong khi không thực hiện quy định này đối với tôm NK từ nước khác, đặc biệt là Thái Lan - một trong những đối thủ cạnh tranh khá mạnh của cá ngừ Việt Nam tại Mỹ, Nhật Bản, EU...

Sản phẩm cá ngừ Việt Nam được thị trường Nhật Bản đánh giá cao về chất lượng. Tuy nhiên, do hoàn toàn dựa vào khai thác tự nhiên nên sản lượng, chất lượng và giá thành không ổn định, vì vậy khả năng tăng trưởng của sản phẩm này phần nào bị hạn chế.

 Theo Hiệp định Hợp tác kinh tế Việt Nam - Nhật Bản (VJEPA) có hiệu lực từ cuối năm 2009, hàng hóa Việt Nam XK sang Nhật Bản và ngược lại, hàng hóa Nhật Bản XK sang Việt Nam sẽ được hưởng ưu đãi về thuế. Tuy nhiên, so với các nước cạnh tranh khác về cá ngừ như: Thái Lan, Indonesia, Malaysia..., cá ngừ Việt Nam vẫn “yếu thế” hơn vì Việt Nam ký Hiệp định Hợp tác song phương với Nhật Bản muộn hơn nên lộ trình giảm thuế sẽ chậm hơn. XK cá ngừ sang Nhật Bản của các nước láng giềng đã được hưởng mức thuế suất ưu đãi khiến sản phẩm cá ngừ Việt Nam bị cạnh tranh mạnh hơn. Hiện nay các DN XK cá ngừ Việt Nam vẫn đang phải chịu mức thuế cao hơn 40% so với các nước này, tương đương 7,2% khi XK sang thị trường Nhật Bản, thậm chí cũng không được cắt giảm hàng năm đến 0% như những nước này. Và đây cũng là một trong những bất lợi của sản phẩm cá ngừ Việt Nam XK sang Nhật Bản, dẫn đến khó có thể cạnh tranh được với các nước trong khu vực tại thị trường này.

Để tăng cường XK cá ngừ vào Nhật, DN Việt Nam cần kiên trì tìm hiểu kỹ đối tác và tạo điều kiện để họ hiểu được mình. Chất lượng sản phẩm sẽ là yếu tố quan trọng giúp duy trì mối quan hệ kinh doanh lâu dài với các đối tác Nhật Bản, vì thế DN phải giữ vững chất lượng hàng hóa xuất sang Nhật, nhất là với mặt hàng thủy sản và cụ thể là cá ngừ.

Ngoài ra, các nhà XK cũng cần cập nhật thông tin về các yêu cầu pháp lý cũng như các yêu cầu kỹ thuật liên quan đến chất lượng sản phẩm và an toàn sức khỏe người tiêu dùng, đến các vấn đề môi trường và xã hội, đồng thời hiểu rõ ý nghĩa của các yêu cầu tiếp cận thị trường Nhật Bản dành cho hoạt động sản xuất và quy trình XK (đối với các vấn đề như hải quan, quy định ghi nhãn...)

Và để duy trì thế đứng vững vàng trên thị trường Nhật Bản, các nhà XK cá ngừ Việt Nam cần có một chiến lược kinh doanh với tầm nhìn sâu rộng, thông qua nghiên cứu thị trường một cách kỹ lưỡng, đầy đủ và tạo được hình ảnh đáng tin cậy cho các sản phẩm cá ngừ XK sang đất nước Hoa Anh Đào.

Nhìn chung, 5 tháng đầu năm 2012, xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường Nhật Bản tăng trưởng ở hầu khắp các mặt hàng, số mặt hàng giảm về kim ngạch chỉ chiếm 0,2% .

Thống kê hàng hóa xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản tháng 5, 5 tháng năm 2012

ĐVT: USD

 

KNXK T5/2012

KNXK 5T/2012

KNXK 5T/2011

% so sánh 5T/2012 với 5T/2011

Tổng kim ngạch

1.087.354.167

5.342.679.738

3.670.732.203

45,55

Dầu thô

218.151.516

1.217.114.443

491.866.079

147,45

hàng dệt, may

143.704.184

722.209.316

581.119.833

24,28

Phương tiện vận tải và phụ tùng

151.424.716

688.055.788

203.542.139

238,04

máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác

105.159.607

494.530.710

327.246.705

51,12

Hàng thủy sản

96.336.795

404.298.642

301.339.467

34,17

gỗ và sản phẩm gỗ

56.782.053

258.155.050

205.781.447

25,45

sản phẩm từ chất dẻo

30.813.488

138.942.790

109.827.712

26,51

máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện

25.592.308

138.456.945

144.548.586

-4,21

giày dép các loại

23.445.007

125.572.801

105.671.311

18,83

cà phê

19.422.993

85.226.258

60.170.873

41,64

Dây điện và dây cáp điện

14.930.743

70.977.522

296.328.477

-76,05

túi xách, ví, vali, mũ và ô dù

12.051.658

70.273.567

57.196.328

22,86

Than đá

15.492.508

69.674.215

116.817.376

-40,36

sản phẩm hóa chất

12.073.100

59.558.853

45.505.747

30,88

sản phẩm từ sắt thép

14.017.653

58.884.514

42.646.942

38,07

hóa chất

12.046.125

58.112.521

18.008.816

222,69

Điện thoại các loại và linh kiện

9.644.282

44.257.024

 

0

Kim loại thường và sản phẩm

6.518.290

33.919.160

 

0

giấy và các sản phẩm từ giấy

6.611.581

32.160.365

27.147.591

18,46

sản phẩm gốm, sứ

5.165.250

27.430.080

19.116.047

43,49

Máy ảnh, máy quay phim và linh kiện

5.826.992

27.401.376

 

0

Xăng dầu các loại

 

24.362.395

206.917

11.673,99

sản phẩm từ cao su

4.447.008

22.910.776

24.307.248

-5,75

Hàng rau quả

4.519.958

20.179.942

17.220.220

17,19

thủy tinh và các sản phẩm từ thủy tinh

2.533.512

19.037.559

8.869.345

114,64

sản phẩm mây, tre, cói và thảm

3.112.181

15.090.349

11.775.359

28,15

đá quý, kim loại quý và sản phẩm

3.393.691

14.643.847

14.355.337

2,01

cao su

2.641.347

13.107.168

20.071.858

-34,70

Quặng và khoáng sản khác

3.340.886

13.057.855

4.167.086

213,36

bánh kẹo và các sản phẩm từ ngũ cốc

1.816.250

9.899.337

10.927.397

-9,41

Xơ sợi dệt các loại

2.652.495

9.135.928

 

0

chất dẻo nguyên liệu

1.295.711

6.936.162

19.799.598

-64,97

hạt tiêu

688.484

6.254.706

4.736.409

32,06

Hạt điều

850.315

3.221.629

2.424.566

32,87

sắt thép các loại

464.800

2.920.376

3.377.384

-13,53

sắn và các sản phẩm từ sắn

117.776

1.193.928

1.751.668

-31,84

 

 

Nguồn: Vinanet