(Vinanet) Xuất khẩu thủy sản sau 2 tháng liên tục đạt mức tăng trưởng dương về kim ngạch, sang tháng 4 lại sụt giảm nhẹ 6,56% về kim ngạch so với tháng trước đó, đạt 504,73 triệu USD; nhưng tính chung cả 4 tháng đầu năm 2012, kim ngạch vẫn tăng trưởng dương 11,43% so với cùng kỳ năm ngoái, đạt 1,79 tỷ USD, chiếm 5,32% trong tổng kim ngạch xuấu khẩu hàng hóa của cả nước.
Dự báo trong tháng 5 sản lượng xuất khẩu có thể giảm và nguyên liệu cho những tháng tiếp theo sẽ không còn phong phú.
Đáng chú ý là trong tháng 4, kim ngạch xuất khẩu thủy sản sang tất cả các thị trường lớn đều bị sụt giảm so với tháng trước đó, như: xuất sang Hoa Kỳ giảm 6,84%, xuất sang Nhật Bản giảm 1,95%, Hàn Quốc giảm 18,34%, Trung Quốc giảm 15,13%, Đức giảm 3,14%. Những thị trường xuất khẩu chủ lực như châu Âu, Hoa Kỳ đang sụt giảm mạnh do khủng hoảng tài chính. DN phải tìm đến những thị trường mới ở châu Á.
Tuy kim ngạch tháng 4 giảm, nhưng tính chung cả 4 tháng đầu năm, kim ngạch xuất khẩu sang hầu hết các thị trường lớn đều tăng kim ngạch so với cùng kỳ: Hoa Kỳ tăng 13,63%, đạt 338,21 triệu USD, chiếm 18,84% tổng kim ngạch xuất khẩu ngành hàng; xuất sang Nhật tăng 30,91%, đạt 311,36 triệu USD, chiếm 17,35%; sang Hàn Quốc tăng 21,16%, đạt 147,8 triệu USD, chiếm 8,23%; sang Trung Quốc tăng 4,7%, đạt 66,33 triệu USD, chiếm 3,7%.
Nhìn chung, xuất khẩu thủy sản sang đa số các thị trường trong 4 tháng đầu năm có mức tăng trưởng dương về kim ngạch so với cùng kỳ năm 2011, với mức tăng từ 0,04% đến 47%, riêng xuất sang thị trường Ai cập tăng trưởng đột biến trên 157%. Tuy nhiên, vẫn có một số thị trường sụt giảm kim ngạch so với cùng kỳ, nhưng mức giảm không nhiều, trong đó xuất sang Indonesia và Ba Lan giảm mạnh nhất với mức giảm tương ứng 48,62% và 33,61%.
Kim ngạch xuất khẩu thủy sản sang các thị trường 4 tháng đầu năm 2012
Thị trường
|
T4/2012
|
4T/2012
|
% tăng giảm KN T4/2012 so với T3/2012
|
% tăng, giảm KN 4T/2012 so với cùng kỳ
|
Tổng cộng
|
504.727.420
|
1.794.736.743
|
-6,56
|
+11,43
|
Hoa Kỳ
|
100.745.772
|
338.213.840
|
-6,84
|
+13,63
|
Nhật Bản
|
93.127.803
|
311.355.825
|
-1,95
|
+30,91
|
Hàn Quốc
|
38.617.575
|
147.796.478
|
-18,34
|
+21,16
|
Trung Quốc
|
18.734.183
|
66.334.469
|
-15,13
|
+4,70
|
Đức
|
15.507.857
|
57.869.336
|
-3,14
|
-26,38
|
Australia
|
15.166.459
|
51.530.834
|
+5,94
|
+42,23
|
Hà Lan
|
13.205.043
|
46.076.316
|
-14,90
|
-10,90
|
Tây Ban Nha
|
12.650.935
|
46.016.377
|
-8,37
|
-0,29
|
Italia
|
11.198.086
|
43.078.534
|
-12,55
|
-16,34
|
Hồng Kông
|
12.588.185
|
42.000.134
|
+9,88
|
+28,54
|
Mexico
|
4.124.027
|
39.906.219
|
-45,58
|
+0,04
|
Canada
|
8.096.136
|
38.564.795
|
-28,38
|
+0,94
|
Pháp
|
10.763.557
|
36.802.751
|
-1,32
|
+13,27
|
Đài Loan
|
12.917.595
|
36.355.331
|
+21,47
|
+17,73
|
Thái Lan
|
10.428.517
|
34.911.628
|
1-6,04
|
+46,63
|
Nga
|
10.986.685
|
33.636.471
|
+9,76
|
-0,79
|
Anh
|
9.626.361
|
32.809.676
|
+9,25
|
-5,47
|
Bỉ
|
9.667.730
|
29.330.135
|
+18,40
|
-11,35
|
Singapore
|
7.828.718
|
26.945.709
|
+10,72
|
+3,95
|
Ai Cập
|
8.337.874
|
24.628.155
|
+1,13
|
+157,43
|
Braxin
|
4.315.976
|
20.511.095
|
+12,39
|
|
Tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất
|
6.619.604
|
19.175.310
|
+7,96
|
+31,89
|
Colômbia
|
2.304.581
|
18.545.858
|
-58,61
|
*
|
Ả Rập Xê út
|
5.434.639
|
17.657.026
|
-0,41
|
+5,08
|
Thuỵ Sĩ
|
5.521.262
|
16.414.153
|
-0,88
|
+15,88
|
Malaysia
|
3.570.968
|
14.522.110
|
-26,43
|
+8,04
|
Ucraina
|
4.175.450
|
12.279.568
|
+22,37
|
+10,33
|
Bồ Đào Nha
|
3.353.058
|
11.796.749
|
-0,69
|
+6,36
|
Ba Lan
|
1.965.266
|
11.699.399
|
-25,35
|
-33,61
|
Philippines
|
2.963.444
|
11.495.408
|
-34,24
|
+7,61
|
Israen
|
2.489.727
|
8.678.199
|
+17,35
|
*
|
Đan Mạch
|
1.758.940
|
8.340.147
|
-34,82
|
-15,42
|
Hy Lạp
|
1.183.851
|
7.612.486
|
-47,66
|
+25,43
|
Campuchia
|
1.411.249
|
5.183.977
|
+15,92
|
+43,42
|
Ấn Độ
|
885.211
|
4.962.133
|
+45,82
|
*
|
Pakistan
|
372.597
|
4.917.474
|
-76,85
|
*
|
Thuỵ Điển
|
1.189.485
|
4.549.758
|
-5,56
|
1,41
|
NewZealand
|
917.449
|
3.926.604
|
-15,23
|
*
|
Rumani
|
590.968
|
3.333.573
|
+3,07
|
*
|
Séc
|
955.246
|
3.200.704
|
+54,07
|
-3,59
|
Indonesia
|
443.653
|
2.984.122
|
-32,19
|
-48,62
|
Cô Oét
|
890.666
|
2.895.976
|
-3,06
|
-1,30
|
Thổ Nhĩ Kỳ
|
1.016.903
|
2.034.636
|
+71,10
|
*
|
I rắc
|
432.165
|
1.370.795
|
+75,47
|
*
|
Brunei
|
69.655
|
523.439
|
-55,01
|
-3,33
|
Các chủng loại thủy sản xuất khẩu 4 tháng đầu năm 2012
SẢN PHẨM
|
Tháng 3/2012 (Triệu USD)
|
Tháng 4/2012 (Triệu USD)
|
T4/2012 so với cùng kỳ 2011 (%)
|
4 tháng/2012
(Triệu USD)
|
KN 4T/2012 so với cùng kỳ 2011 (%)
|
Tôm các loại (mã HS 03 và 16)
|
178,405
|
163,283
|
-6,5
|
599,291
|
+4,5
|
trong đó: - Tôm chân trắng
|
58,516
|
49,800
|
+22,3
|
196,036
|
+43,4
|
- Tôm sú
|
98,181
|
91,390
|
-21,7
|
326,489
|
-10,2
|
Cá tra (mã HS 03 và 16)
|
160,958
|
143,603
|
-0,9
|
568,995
|
+9,2
|
Cá ngừ (mã HS 03 và 16)
|
55,650
|
45,655
|
+3,4
|
175,363
|
+18,3
|
trong đó: - Cá ngừ mã HS 16
|
17,212
|
17,285
|
+48,6
|
55,087
|
+45,7
|
- Cá ngừ mã HS 03
|
38,438
|
28,370
|
-12,7
|
120,277
|
+9,0
|
Cá các loại khác (mã HS 0301 đến 0305 và 1604, trừ cá ngừ, cá tra)
|
84,020
|
63,251
|
+9,6
|
245,579
|
+24,3
|
Nhuyễn thể (mã HS 0307 và 16)
|
53,957
|
49,486
|
+22,7
|
179,650
|
+20,7
|
trong đó: - Mực và bạch tuộc
|
46,343
|
43,413
|
+28,5
|
156,716
|
+26,2
|
- Nhuyễn thể hai mảnh vỏ
|
7,614
|
6,073
|
-7,5
|
22,933
|
-7,3
|
Cua, ghẹ và Giáp xác khác (mã HS 03 và 16)
|
7,482
|
4,149
|
-3,9
|
24,585
|
-2,6
|
TỔNG CỘNG
|
540,472
|
470,103
|
+0,9
|
1794,140
|
+11,1
|
Giải pháp cho ngành thủy sản: Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP), trong quý I-2012 có khoảng 30% DN đứng trước nguy cơ ngừng sản xuất. Khó khăn nhiều nhưng chủ yếu do 2 yếu tố thị trường và nguồn vốn. Trong tháng 4 có 26 lô hàng thủy sản của Việt Nam bị cảnh báo ở Nhật Bản, tăng 36,8% so với 19 lô của tháng trước. Cùng với đó là những khó khăn đến từ việc kiểm tra, chứng thực trước khi xuất khẩu do các ngành chức năng đưa ra, theo các DN là quá khắt khe và không đúng thời điểm.
Ngành thủy sản cần có một chiến lược dài hơi với những biện pháp tổng thể để đạt kim ngạch xuất khẩu 6,5 tỷ USD trong năm 2012; hướng đến mốc 8 tỷ USD năm 2015 và 10 tỷ USD năm 2020. Theo đó, cần mạnh tay “phẫu thuật”, tái cấu trúc toàn bộ ngành thủy sản, từ DN xuất khẩu đến quy hoạch nuôi trồng, quản lý; giảm số lượng và coi trọng chất lượng, nội lực của DN…
Cùng lúc, ngân hàng cần xem xét khoanh nợ, giãn nợ, tiếp tục hỗ trợ cho những DN làm tốt, có đầu tư chiều sâu, có thương hiệu để tăng cường sản xuất, tạo việc làm cho công nhân và giữ vững thị trường xuất khẩu.
Về lâu dài, VASEP chủ trương không xây thêm nhà máy chế biến thủy sản mà tập trung đầu tư công nghệ hiện đại để có nhiều sản phẩm đạt hàm lượng giá trị tăng cao. VASEP khuyến khích DN xây dựng vùng nguyên liệu, từng bước giải quyết bài toán thiếu nguyên liệu thủy sản kéo dài trong những năm qua.