Theo số liệu thống kê, trong 5 tháng đầu năm 2012, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang thị trường Nauy đạt 35,6 triệu USD, tăng (1,8%) so với 34,9 triệu USD năm 2011.
5 tháng năm 2012, Việt Nam chủ yếu xuất khẩu sang thị trường này giày dép, dệt may, gỗ và sản phẩm, hạt điều, sản phẩm chất dẻo, máy móc thiết bị dụng cụ phụ tùng. Trong đó, xuất khẩu nhiều nhất vào thị trường này là mặt hàng giày dép, với trị giá hơn 6 triệu USD, chiếm 18,8% tổng kim ngạch xuất khẩu.
Kim ngạch xuất khẩu sang Nauy 5 tháng đầu năm 2012
Mặt hàng
|
ĐVT
|
Tháng 5/2012
|
5 Tháng/2012
|
Tổng
|
|
|
7.903.905
|
|
35.622.878
|
Giày dép các loại
|
USD
|
|
2.476.001
|
|
6.732.470
|
Hàng dệt may
|
USD
|
|
1.162.499
|
|
3.969.167
|
Gỗ và sp gỗ
|
USD
|
|
670.880
|
|
3.542.147
|
Hạt điều
|
Tấn
|
112
|
828.089
|
287
|
2.124.785
|
Sản phẩm chất dẻo
|
USD
|
|
381.010
|
|
1.482.758
|
Máy móc, thiết bị dụng cụ phụ tùng khác
|
USD
|
|
174.064
|
|
1.188.224
|
Tìm hiểu về thị trường Nauy
Na Uy có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, nhất là về năng lượng (dầu khí, thuỷ điện), thuỷ hải sản và rừng. Chính trị xã hội ổn định, lực lượng lao động có trình độ khoa học kỹ thuật và tay nghề cao.
Đây là những yếu tố thuận lợi để Na Uy trở thành một nước công nghiệp phát triển. Dân số ít nên nhu cầu của thị trường trong nước nhỏ và ngoại thương đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế Na Uy. Từ năm 1990, Na Uy luôn đạt mức thặng dư trong cán cân thanh toán quốc tế (trừ năm 1998 là cân bằng do giá dầu giảm và nhập khẩu tăng). Xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ chiếm tới 46,6% GDP. Xuất khẩu dầu khí là nguồn thu nhập quan trọng nhất của Na Uy (chiếm 1/3 giá trị xuất khẩu). Na Uy chủ yếu buôn bán với các đối tác chính trong khu vực EU như Anh, Đức, Hà Lan, Pháp, Thụy Điển, Đan Mạch và một số đối tác ngoài khu vực như Trung Quốc và Mỹ. Năm 2010, Na Uy đạt thặng dư thương mại với mức kim ngạch đạt 188,68 tỷ USD trong đó xuất khẩu là137 tỷ USDvànhập khẩulà74,02 tỷ USD; tăng trưởng kinh tế tăng 1,4%, tỷ lệ lạm phát thấp (2,4%) và tỷ lệ thất nghiệp là 3,6%. Năm 2011, kinh tế Na Uy tăng trưởng ổn định với mức thất nghiệp thấp (3,4%) và GDP (không tính dầu mỏ) đã tăng trưởng 7 quý liên tiếp, với mức tăng cả năm 2011 là 1,7%. Với việc tìm ra các mỏ dầu mới ở Biển Bắc, triển vọng Na Uy sẽ giữ được sản lượng khai thác dầu mỏ hiện nay thêm một thập kỷ nữa. Với triển vọng này, Quỹ dầu mỏ (Pension Fund Global) cho đến ngày 4/1/2012 của Na Uy đã đạt trị giá hơn 3,3 nghìn tỷ curon Na Uy (tương đương hơn 550 tỷ USD).
Mô hình kinh tế Na Uy theo mô hình kinh tế hỗn hợp, có sự kết hợp giữa kinh tế thị trường và kinh tế kế hoạch có sự điều tiết của Chính phủ. Chính phủ nắm giữ những lĩnh vực quan trọng như: dầu khí (tập đoàn Statoil), năng lượng (tập đoàn Norsk Hydro), viễn thông (tập đoàn Telenor), điện và thủy điện (tập đoàn Statkraft) và áp đặt các chính sách, tiêu chuẩn, quy định. Cơ cấu nền kinh tế theo hướng dịch vụ (57,8%) – công nghiệp (40,1%) – nông nghiệp (2,1%); theo đó cũng định hình cơ cấu lao động ở Na Uy với phần lớn nhân lực tập trung trong ngành dịch vụ và công nghiệp.
Na Uy đã tham gia Hiệp định Khu vực kinh tế Châu Âu (EEA), là thành viên Khu vực Thương mại Tự do Châu Âu (EFTA), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD), Ngân hàng Thế giới (WB), Tổ chức thương mại Thế giới (WTO), Ngân hàng phát triển xuyên Mỹ (IADB), Ngân hàng phát triển Châu Phi (AFDB), Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB), Ngân hàng Châu Âu về tái thiết và phát triển (EBRD), Ngân hàng Đầu tư Bắc Âu (NIB), Quỹ Phát triển Bắc Âu (NDF), Hội đồng Bắc Âu và Quỹ Dự án Bắc Âu (NOPEF).