(VINANET) - Thị trường Campuchia có nhiều cơ hội cho hàng hóa Việt Nam xuất sang. Với 1.137km đường biên giới, trải dài qua 10 tỉnh Việt Nam, có 9 cửa khẩu quốc tế và 9 cửa khẩu chính, đó là cơ hội để việc trao đổi hàng hóa giữa hai bên dễ dàng, sôi động. Các cặp cửa khẩu giao thương lớn của hai nước đều gần các trung tâm kinh tế, có đường giao thông khá thuận lợi.

Cũng do nền công nghiệp sản xuất của Campuchia còn yếu kém, nhiều mặt hàng tiêu dùng phải nhập khẩu. Thế nhưng, năng lực cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam tại thị trường này còn rất thấp so với hàng hóa của các nước trong khu vực. Trước đây, khi sản xuất trong nước còn yếu, chính Campuchia là một địa điểm trung chuyển hàng hóa các nước như Thái Lan... đưa vào Việt Nam. Đến nay, Việt Nam đã tăng các mặt hàng xuất khẩu vào thị trường và ngày càng tăng mạnh.

Cùng với sự phát triển kinh tế của Campuchia, mối quan hệ thương mại và đầu tư giữa Việt Nam và Campuchia có những bước phát triển khả quan, kim ngạch buôn bán hai chiều không ngừng tăng nhanh với mức tăng bình quân trên 30%/năm.

Số liệu từ TCHQ Việt Nam cho thấy, 2 quý đầu năm 2012, thương mại giữa hai nước đạt 1,6 tỷ USD, trong đó Việt Nam xuất khẩu sang Cămpuchia đạt 1,3 tỷ USD hàng hóa sang thị trường Cămpuchia, tăng 26,77% so với cùng kỳ năm 2011. Như vậy, 6 tháng đầu năm 2012, Việt Nam đã xuất siêu sang Cămpuchia trên 1 tỷ USD.

Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang Campuchia là hàng công nghiệp tiêu dùng (chiếm trên 50%), kế đến là hàng nông lâm thủy hải sản, sản phẩm nhựa, vật liệu xây dựng... Đáng chú ý, các mặt hàng xuất khẩu sang Cămpuchia trong 6 tháng 2012 đều tăng trưởng về kim ngạch, chỉ có một số mặt hàng giảm kim ngạch đó là: dệt may giảm 4,85%; máy móc thiết bị dụng cụ phụ tùng giảm 50,6%; sản phẩm gốm sứ giảm 12,16%; xơ sợi giảm 17,65%; hàng rau quả giảm 6,73% và sản phẩm từ cao su giảm 47,88%.

Dẫn đầu về kim ngạch là mặt hàng xăng dầu, với 455,2 triệu USD, chiếm 32,5% tỷ trọng, tăng 10,9% so với 6 tháng 2011.

Đứng thứ hai là sắt thép các loại, trị giá 200,7 triệu USD tăng 28,61% so với cùng kỳ…

Theo đánh giá của Bộ Công Thuonwg, mặc dù mặc dù kim ngạch xuất khẩu hàng hóa sang Campuchia tăng khá cao nhưng chủ yếu là xăng dầu tái xuất, các sản phẩm hàng hóa chế tạo mà Việt Nam có nhiều tiềm năng thì xuất khẩu vẫn chưa cao. Cơ sở vật chất kỹ thuật, thương mại tại khu vực các cửa khẩu nhìn chung còn thấp kém và lạc hậu như thiếu trung tâm thương mại, kho hải quan, hệ thống cửa hàng giới thiệu sản phẩm; các hệ thống giao thông, thông tin liên lạc, hệ thống thanh toán còn thiếu và yếu. Hiện nay, công tác hỗ trợ xúc tiến thương mại còn yếu kém, chưa có sự khảo sát thị trường nghiêm túc, thiếu thông tin về cơ hội thương mại và đầu tư. Trong khi đó, các doanh nghiệp Thái Lan đã liên kết, xây dựng hệ thống phân phối tại thị trường này rất tốt và là đối thủ nặng ký trong thời gian tới đây, khi các doanh nghiệp Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường này.

Bên cạnh đó, Campuchia xuất khẩu sang Việt Nam chủ yếu hai mặt hàng chính là cao su, nguyên phụ liệu gỗ và sản phẩm đồ gỗ chế biến... Với cán cân buôn bán như vậy, Việt Nam đang là nước nhập khẩu lớn thứ tư của Campuchia (sau Trung Quốc, Thái Lan và vùng lãnh thổ Đài Loan)... Các doanh nghiệp đã mạnh dạn mở cửa hàng tại Campuchia để trực tiếp phân phối hàng hóa, nhưng còn mang tính chất nhỏ lẻ, chưa hình thành được mạng lưới phân phối. Những doanh nghiệp này chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp thương mại mạnh chưa xâm nhập thị trường này do môi trường pháp luật còn thiếu minh bạch, thủ tục phiền hà...

Thống kê hàng hóa xuất khẩu sang thị trường Cămpuchia 2 quý đầu năm 2012

ĐVT: USD

 

KNXK T6/2012

KNXK 6T/2012

KNXK 6T/2011

% +/- KN so cùng kỳ

Tổng kim ngạch

218.343.990

1.399.612.271

1.104.086.719

26,77

Xăng dầu các loại

53.095.477

455.259.341

410.531.764

10,90

sắt thép các loại

35.732.857

200.753.709

156.099.825

28,61

SẢn phẩm từ chất dẻo

7.657.928

43.703.484

37.787.711

15,66

sản phẩm từ sắt thép

5.956.502

43.296.250

38.214.690

13,30

Hàng dệt, may

7.560.652

43.232.313

45.434.405

-4,85

Bánh kẹo và các sản phẩm từ ngũ cốc

6.329.298

40.346.577

31.825.410

26,77

máy móc, thiết bị dụng cụ phụ tùng khác

4.134.560

29.637.093

 

 

điện thoại các loại và linh kiện

4.590.191

27.770.529

 

 

Sản phẩm từ hoá chất

4.215.811

23.905.499

18.510.713

29,14

phương tiện vận tải và phụ tùng

3.269.017

19.615.373

7.419.100

164,39

Hoá chất

3.426.459

17.966.656

1.653.077

986,86

máy móc, thiết bị dụng cụ phụ tùng khác

2.132.046

13.373.627

26.780.440

-50,06

Giấy và các sản phẩm từ giấy

1.819.535

11.881.312

8.832.583

34,52

Chất dẻo nguyên liệu

1.747.788

10.060.576

5.252.144

91,55

Sản phẩm gốm sứ

1.831.432

8.946.301

10.184.295

-12,16

Hàng thuỷ sản

1.541.118

8.638.463

6.627.564

30,34

dây điện và dây cáp điện

1.365.402

7.131.590

5.741.343

24,21

Xơ sợi các loại

239.698

4.174.084

5.068.850

-17,65

Hàng rau quả

448.523

1.918.438

2.056.936

-6,73

Thuỷ tinh và các sản phẩm từ thủy tinh

460.414

1.866.330

1.819.856

2,55

Sản phẩm từ cao su

161.877

1.085.143

2.081.980

-47,88

Gỗ và sản phẩm gỗ

151.327

988.475

623.073

58,65

Để thúc đẩy thương mại giữa hai nước đạt 5 tỷ USD trong 5 năm tới, hai bên nhất trí tiếp tục thúc đẩy các cơ chế sẵn có hoặc ký mới các thoả thuận hợp tác nhằm dành ưu đãi nhập khẩu các hàng hóa có xuất xứ từ mỗi nước, đơn giản hoá các thủ tục hải quan, mở chi nhánh ngân hàng ở khu vực biên giới, tăng cường cơ chế trao đổi thông tin; tích cực triển khai nội dung Biên bản ghi nhớ về hợp tác song phương trong lĩnh vực quản lý thị trường và tiếp tục tổ chức Hội nghị thường niên  về Hợp tác Phát triển thương mại khu vực biên giới.

Khuyến khích tổ chức các hội chợ thương mại, triển lãm giới thiệu sản phẩm, hội thảo, diễn đàn doanh nghiệp giữa các địa phương biên giới hai nước; và sớm hoàn thành Quy hoạch phát triển mạng lưới chợ biên giới đến 2020. Hai bên cũng nhất trí tiếp tục thực hiện thoả thuận về mua bán điện và nghiên cứu khả năng mở rộng việc mua bán điện ở khu vực khác theo đề nghị của mỗi bên. Phía Campuchia đồng ý sẽ tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư điện Việt Nam tiến hành khảo sát, triển khai các dự án thuỷ điện tại Campuchia.

Nguồn: Vinanet