Ngày 31-3, Hội nghị cấp cao Tiểu vùng Mê Công mở rộng lần thứ ba (GMS 3) đã khai mạc tại Thủ đô Viêng Chăn (Lào) với chủ đề "Tăng cường cạnh tranh thông qua kết nối sâu rộng hơn". Thủ tướng sáu nước tiểu vùng Mê Công (Cam-pu-chia, Lào, Myanmar, Thái-lan, Trung Quốc, Việt Nam) và Chủ tịch Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) tham dự hội nghị.

Hội nghị đã tập trung thảo luận  sáu chủ đề: Tăng cường kết nối giao thông; tạo thuận lợi cho thương mại và giao thông tiểu vùng; hợp tác công - tư để tăng cường đầu tư và thương mại; phát triển nguồn nhân lực; quản lý bền vững nguồn tài nguyên thiên nhiên và quan hệ với các đối tác phát triển trong hợp tác GMS. Thủ tướng các nước đã điểm lại quá trình hợp tác và đạt được nhất trí cao trong việc tiếp tục tăng cường kết nối, đặc biệt là kết nối giao thông, thông tin, truyền thông... đi đôi với hoàn thiện thể chế chính sách tạo thuận lợi thúc đẩy thương mại, đầu tư, du lịch... tại tiểu vùng.

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã có bài tham luận về nhiều nội dung quan trọng của hợp tác GMS cũng như các biện pháp để tăng cường và thúc đẩy hợp tác GMS hướng tới một Tiểu vùng Mê Công mở rộng, thịnh vượng và phát triển bền vững, trong đó đặc biệt nhấn mạnh tới hợp tác bảo vệ môi trường trong khai thác tài nguyên thiên nhiên, bao gồm cả nguồn nước sông Mê Công.

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khẳng định, các nước GMS cần tăng cường hợp tác nhằm biến các hành lang giao thông hiện tại thành các hành lang kinh tế để đóng góp nhiều hơn vào tăng trưởng kinh tế gắn với xóa đói, giảm nghèo tại GMS. Thủ tướng đề nghị lãnh đạo các nước GMS tiếp tục tăng cường liên kết nội khối, gắn phát triển tiểu vùng với khu vực; xây dựng thể chế hài hòa và phối hợp các quy định pháp luật theo hướng đồng bộ; hợp tác chặt chẽ giữa GMS với ADB trong việc ưu tiên triển khai các dự án; có cơ chế chính sách cần thiết để tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp hợp tác và đầu tư trong Tiểu vùng; chú trọng giải quyết các vấn đề xã hội, y tế, bảo vệ môi trường...

* Thủ tướng các nước GMS đã ký Tuyên bố chung của hội nghị, khẳng định lại tầm nhìn và nỗ lực của các nước nhằm xây dựng một tiểu vùng hội nhập, hài hòa và phát triển thịnh vượng; đánh giá tiến trình triển khai các chương trình, dự án của GMS và thông qua Chương trình Hành động Viêng Chăn để phát triển GMS giai đoạn 2008 - 2012.

* Nhân dịp này, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã chứng kiến lễ ký kết các văn kiện hợp tác giữa các nước GMS. Thay mặt Chính phủ Việt Nam, Bộ trưởng Kế hoạch và Ðầu tư Võ Hồng Phúc đã ký Bản ghi nhớ về phát triển bền vững và cân bằng Hành lang kinh tế Bắc - Nam và nâng cao hiệu quả tổ chức các hành lang kinh tế; Thứ trưởng Công thương Nguyễn Thành Biên ký Bản ghi nhớ Lộ trình thực hiện Hiệp định Thương mại điện năng GMS; Thứ trưởng  Giao thông vận tải Lê Mạnh Hùng ký Bản ghi nhớ Hành lang Nam Ninh - Hà Nội và cặp cửa khẩu hữu nghị giữa Trung Quốc và Việt Nam.

Dưới đây là Tuyên bố chung của Hội nghị cấp cao GMS 3

1. Chúng tôi, Lãnh đạo Chính phủ Vương quốc Cam-pu-chia, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, Liên hiệp Myanmar, Vương quốc Thái-lan, Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và Chủ tịch Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), nhân dịp Hội nghị Thượng đỉnh Tiểu vùng Mê Công mở rộng (GMS) tuyên bố:

Nhắc lại tại Hội nghị Thượng đỉnh GMS lần thứ nhất và thứ hai tổ chức tại Phnôm Pênh và Côn Minh, chúng tôi đã đặt nền móng cho tầm nhìn về một tiểu vùng hội nhập, hòa hợp và thịnh vượng chung, thông qua Khung chiến lược 10 năm cho hợp tác kinh tế GMS và đưa ra những định hướng cơ bản để tăng cường sự kết nối, khả năng cạnh tranh và tính cộng đồng;

Khẳng định lại những nguyên tắc hợp tác cơ bản của tiểu vùng, trong đó nhấn mạnh tầm quan trọng của cách tiếp cận thực tiễn, hướng tới hành động và kết quả thực tiễn trong quá trình chuẩn bị và thực hiện các dự án tiểu vùng, thông qua tại Hội nghị Thượng đỉnh lần 2 tổ chức tại Côn Minh tháng 7-2005;

Nhận thức rõ xu hướng toàn cầu hóa nhanh chóng, những tiến bộ khoa học và công nghệ, sự gia tăng tự do hóa thương mại-đầu tư và hội nhập kinh tế ở cấp độ khu vực và toàn cầu cũng như vai trò ngày càng tăng của các nền kinh tế mới nổi tại các khu vực xung quanh sẽ có ảnh hưởng quan trọng đối với sự phát triển của tiểu vùng GMS;

Ý thức rằng trong khi những thách thức đối với sự phát triển của GMS còn đang hiện hữu, những tiến bộ đạt được trong hợp tác tiểu vùng đang mở ra những cơ hội chưa từng có;

Tin tưởng rằng sự duy trì và thúc đẩy những nỗ lực hợp tác và hội nhập kinh tế là hết sức cần thiết nhằm đối phó với những thách thức và tận dụng đầy đủ các cơ hội cho sự phát triển của hợp tác GMS;

Nhân dịp này tái khẳng định sự cam kết và quyết tâm hiện thực hóa tầm nhìn về một tiểu vùng hội nhập, hòa hợp, và thịnh vượng và tiếp tục hợp tác chặt chẽ nhằm thúc đẩy sự phồn vinh của người dân tiểu vùng.

Tiến triển trong hợp tác kinh tế GMS

2. Chúng tôi rất hài lòng về những thành quả to lớn của hợp tác GMS từ năm 1992 tới nay.

3. Chương trình hợp tác kinh tế và phát triển tiểu vùng đang tăng tốc, mang đến những kết quả thiết thực và góp phần hiện thực hóa tầm nhìn chung. Sự mở rộng quan hệ thương mại, đầu tư, du lịch và sự tăng cường hiểu biết lẫn nhau trên cơ sở cải thiện và nâng cấp hạ tầng giao thông trong tiểu vùng có ý nghĩa quan trọng. Sự suy giảm nhanh chóng về tỷ lệ nghèo từ năm 1992 là thành tựu đáng kể. Trong số các nhân tố tạo nên thành công này, chương trình hợp tác GMS rõ ràng là nhân tố quan trọng hướng tới mục tiêu cốt lõi về xóa đói, giảm nghèo của các nỗ lực chung về phát triển tiểu vùng.

4. Chúng tôi hài lòng ghi nhận sự cải thiện đáng kể về chất lượng và sự tăng cường hạ tầng giao thông trong Tiểu vùng, thể hiện qua sự hoàn thành gần như toàn bộ các tuyến Hành lang Ðông - Tây, Hành lang Bắc - Nam, Hành lang phía Nam đi đôi với các nỗ lực đồng bộ nhằm giảm thiểu những rào cản phần mềm đối với sự di chuyển người và hàng hóa qua biên giới thể hiện qua Hiệp định Vận tải qua biên giới GMS (CBTA). Những biện pháp này đã góp phần cắt giảm chi phí và thời gian di chuyển, thúc đẩy thương mại qua biên giới và những cơ hội hợp tác kinh tế tại các khu vực cửa khẩu, đồng thời tăng cường sự giao lưu giữa các cộng đồng. Chúng tôi hoan nghênh kết quả triển khai giai đoạn đầu của Hiệp định CBTA tại các cặp cửa khẩu Lao Bảo - Dansavanh, Mukdahan - Savanakhet và Hà Khẩu - Lào Cai.

5. Chúng tôi cũng đạt được những thành tựu quan trọng trong nhiều lĩnh vực hợp tác khác. Trong lĩnh vực năng lượng, chúng tôi đang trong quá trình xây dựng các nhà máy và mạng lưới truyền tải điện mới, đồng thời mở rộng phạm vi hợp tác chuyên ngành và đặt nền móng cho việc hình thành thị trường mua bán điện năng và năng lượng tiểu vùng trong tương lai. Trong lĩnh vực viễn thông, chúng tôi đã xây dựng hạ tầng viễn thông tiểu vùng và đang tiến tới giai đoạn hợp tác cao hơn, thông qua việc phát triển Mạng lưới siêu xa lộ thông tin GMS. Trong lĩnh vực du lịch, chúng tôi đang hướng tới Kế hoạch hành động cụ thể cho 5 năm tới, bao gồm các biện pháp đưa Tiểu vùng trở thành điểm đến du lịch thống nhất và phát triển hạ tầng du lịch. Trong lĩnh vực nông nghiệp, chúng tôi đang thực hiện chương trình thúc đẩy thương mại nông nghiệp qua biên giới, đảm bảo an ninh lương thực và cải thiện đời sống cho người nông dân. Trong lĩnh vực phát triển nguồn nhân lực, chúng tôi đang triển khai thành công chương trình phòng chống bệnh dịch truyền nhiễm và Kế hoạch Phnôm Pênh về cung cấp các chương trình đào tạo về quản lý phát triển cho các quan chức Chính phủ.

Trong lĩnh vực môi trường, chương trình tổng thể nhằm đối phó với các thách thức về môi trường, bao gồm việc hình thành các hành lang đa dạng sinh học, đã được thực hiện. Trong lĩnh vực thương mại và đầu tư, chúng tôi đang đạt tiến bộ về tạo lập môi trường thuận lợi, ưu đãi và cạnh tranh tại các nước trong tiểu vùng thông qua việc thực hiện Khung chiến lược hành động, tạo thuận lợi thương mại và đầu tư tiểu vùng (SFA-TFI). Những thành quả trên đã tạo nên một nền tảng vững chắc, giúp duy trì và làm sâu sắc hơn hoạt động hợp tác trong thời gian tới.

Những cơ hội, thách thức và định hướng hành động trong tương lai

6. Những tiến bộ đạt được cho thấy hợp tác tiểu vùng là cơ chế hiệu quả đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, thách thức còn nhiều, bao gồm sự xuất hiện những rủi ro về y tế, nạn buôn lậu ma túy và buôn người, sự gia tăng các nguy cơ với môi trường như sự biến đổi khí hậu. Ðồng thời, cũng có rất nhiều cơ hội có thể tận dụng thành công thông qua các hoạt động hợp tác. Những cơ hội này bao gồm những xu hướng đang ngày càng chi phối ở cấp độ khu vực và toàn cầu, chẳng hạn sự mở rộng của các chuỗi cung ứng toàn cầu, sự gia tăng các khu vực thương mại tự do, những bước tiến mạnh mẽ hướng tới chủ nghĩa khu vực và sự tăng trưởng kinh tế nhanh chóng của khu vực châu Á-Thái Bình Dương.

7. Những cơ hội và thách thức nảy sinh từ sự phát triển của tiểu vùng GMS đã được xem xét toàn diện trong quá trình đánh giá Khung chiến lược hợp tác 10 năm GMS, là văn kiện định hướng cho việc thực hiện các chương trình hợp tác GMS trong 5 năm qua. Chúng tôi hoan nghênh và thông qua những kết luận và khuyến nghị của bản đánh giá. Chúng tôi nhất trí với kết luận của bản đánh giá rằng Khung chiến lược vẫn phù hợp và là căn cứ vững chắc cho hợp tác khu vực trong 5 năm tới. Tuy nhiên, chúng tôi cũng tin tưởng rằng, như kết quả đánh giá đã cho thấy, cần có một số điều chỉnh đối với hợp tác GMS để tận dụng tốt hơn những cơ hội từ sự gia tăng toàn cầu hóa và hội nhập khu vực.

8. Vì vậy, trong khi quyết tâm đẩy mạnh và duy trì sự hợp tác để phát triển cơ sở hạ tầng Tiểu vùng, chúng tôi cũng đặt quan tâm lớn hơn tới các khía cạnh hợp tác nhằm: (i) Phát huy lợi ích của sự kết nối để nâng cao năng lực cạnh tranh; (ii) Ðẩy nhanh hơn nữa tốc độ giảm nghèo và cải thiện đời sống người dân; (iii) Chủ động đối phó những thách thức xuyên biên giới như sự lan truyền dịch bệnh truyền nhiễm, sự di cư lao động bất hợp pháp và suy thoái môi trường.

9. Nâng cao khả năng cạnh tranh về kinh tế và thúc đẩy tiến trình phát triển kinh tế - xã hội thông qua việc phát huy hơn nữa các lợi ích của sự tăng cường kết nối sẽ là trọng tâm chính của hoạt động hợp tác trong những năm tới. Với địa thế nằm ở trung tâm Ðông Á và sự liền kề biên giới, hội nhập kinh tế khu vực không chỉ đem lại những lợi ích to lớn mà còn có tác dụng lan tỏa. Nâng cao năng lực cạnh tranh là nhân tố thiết yếu giúp hiện thực hóa tiềm năng của Tiểu vùng để trở thành trung tâm phát triển trong khu vực.

10. Ðể tăng cường khả năng cạnh tranh, chúng tôi sẽ phát huy những thành quả kết nối về giao thông nhằm hướng tới sự kết nối toàn diện và bền vững. Chúng tôi sẽ khuyến khích sự khai thác những lợi ích của việc cải thiện cơ sở hạ tầng Tiểu vùng nhằm thúc đẩy thương mại, đầu tư và du lịch. Chúng tôi sẽ đảm bảo việc sử dụng an toàn và hiệu quả cơ sở hạ tầng và đưa vào áp dụng các quy định và luật lệ phù hợp. Chúng tôi cũng sẽ từng bước thiết lập hạ tầng xã hội và môi trường để tăng cường tính cạnh tranh, thông qua việc phát triển nguồn nhân lực và khai thác bền vững môi trường và tài nguyên thiên nhiên. Chúng tôi sẽ tiếp tục cùng nhau hướng tới sự liên kết các chính sách và chương trình liên quan tới những lĩnh vực nêu trên ở cấp độ địa phương, quốc gia và khu vực. Ðồng thời, chúng tôi cần hài hòa các dự án và sáng kiến tiểu vùng, bao gồm từ phát triển cơ sở hạ tầng tới phát triển nguồn nhân lực, từ thúc đẩy thương mại và đầu tư tới du lịch nhằm tránh sự trùng lặp và hướng tới sự bổ trợ, hiệu quả và sức mạnh tổng hợp cao hơn.

11. Chúng tôi đánh giá cao việc khởi động sáng kiến toàn diện, nhằm hỗ trợ tiến trình thuận lợi hóa thương mại và giao thông, nhằm gắn kết và tăng cường những nỗ lực hợp tác trong khuôn khổ Hiệp định Vận tải qua biên giới (CBTA) và SFA-TFI. Chúng tôi yêu cầu các Bộ trưởng đẩy nhanh việc thực hiện CBTA và các kế hoạch hành động vùng và quốc gia trong khuôn khổ SFA-TFI.

12. Chúng tôi sẽ tăng cường những nỗ lực tạo lập môi trường mang tính cạnh tranh và thuận lợi cho thương mại, đầu tư và phát triển khu vực tư nhân, coi đây là yếu tố quyết định đối với việc phát triển những hành lang giao thông thành hành lang kinh tế. Chúng tôi sẽ ban hành các chính sách kinh tế hữu hiệu, triển khai các khuôn khổ pháp luật và thể chế và thúc đẩy quá trình tự do hóa, hài hòa và đồng bộ hóa các cơ chế thương mại và đầu tư. Chúng tôi sẽ thúc đẩy quan hệ đối tác giữa khu vực nhà nước và tư nhân nhằm tăng cường hoạt động kinh doanh và đầu tư trong tiểu vùng để trên cơ sở đó tạo ra cơ hội thu nhập và việc làm lớn hơn cho người dân. Trong bối cảnh đó, chúng tôi hoan nghênh đề xuất thiết lập Diễn đàn Hành lang kinh tế để điều phối sự phát triển của các hành lang kinh tế.

13. Các biện pháp được áp dụng đã góp phần củng cố Diễn đàn doanh nghiệp GMS và chúng tôi sẽ nỗ lực hơn nữa để thúc đẩy sự tham gia của khu vực tư nhân trong quá trình lập kế hoạch và phát triển tiểu vùng. Chúng tôi đánh giá cao hoạt động đối thoại với cộng đồng doanh nghiệp vào ngày 30-3-2008 và yêu cầu các Bộ trưởng tiếp tục theo dõi và triển khai những khuyến nghị đưa ra trong buổi đối thoại, bao gồm sáng kiến thúc đẩy sự tham gia của các doanh nghiệp vừa và nhỏ vào hoạt động xuất khẩu.

14. Chúng tôi đánh giá cao việc đưa Diễn đàn Thanh niên tiểu vùng GMS vào chương trình Hội nghị Thượng đỉnh lần này. Thanh niên tiểu vùng là thế hệ lãnh đạo và hoạch định chính sách kế tiếp, là những người lao động và những bậc phụ huynh tương lai của Tiểu vùng, do đó cần được trao cơ hội để được bày tỏ, lắng nghe và gánh vác công việc chung. Chúng tôi cũng hoan nghênh việc tổ chức Chương trình hữu nghị thanh niên Mê Công và trông đợi thanh niên sẽ tham gia rộng rãi hơn vào chương trình GMS.

Kế hoạch hành động phát triển GMS 2008-2012

15. Chúng tôi thông qua Kế hoạch hành động Viêng Chăn về Phát triển Tiểu vùng GMS giai đoạn 2008-2012. Trong bối cảnh này, chúng tôi nhấn mạnh tầm quan trọng của việc triển khai sớm và thực chất những biện pháp sau:

Giao thông: Ðẩy mạnh xây dựng và cải tạo các tuyến đường nằm trong các hành lang GMS và mở rộng mạng lưới các hành lang thông qua sự kết nối đa phương thức, bao gồm tuyến đường sắt Xin-ga-po - Côn Minh.

Năng lượng: Hỗ trợ thiết lập một thị trường cung cấp năng lượng bền vững và hiệu quả trong GMS;

Viễn thông: Thúc đẩy sự kết nối hạ tầng viễn thông; thúc đẩy ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông thông qua Mạng lưới Siêu xa lộ thông tin GMS; tăng cường nguồn lực cho sự phát triển thông tin tại các vùng nông thôn trong tiểu vùng; triệu tập hội nghị Bộ trưởng phụ trách lĩnh vực viễn thông tiểu vùng lần thứ nhất;

Nông nghiệp: Thực hiện sáng kiến GMS về phát triển năng lượng sinh học và năng lượng tái tạo tại khu vực nông thôn; mở rộng quy mô các chương trình kiểm soát dịch bệnh ở gia súc xuyên biên giới và tăng khả năng tiếp cận về thông tin trong lĩnh vực nông nghiệp tại các vùng hẻo lánh;

Môi trường: Hỗ trợ giảm thiểu các rủi ro môi trường đối với sinh kế của người dân và các kế hoạch phát triển của tiểu vùng, bao gồm những rủi ro về thay đổi khí hậu; kêu gọi tăng cường sự hợp tác giữa các nước thành viên nhằm bảo vệ tài nguyên rừng trong GMS;

Du lịch: Tăng cường quản lý bền vững các điểm du lịch tự nhiên và du lịch văn hóa; thúc đẩy việc quảng bá chung du lịch của tiểu vùng; tăng cường hoạt động của Cơ quan điều phối du lịch Mê Công;

Phát triển nguồn nhân lực: Thực hiện các khung chiến lược và kế hoạch hành động mới về hợp tác giáo dục, y tế, lao động và các lĩnh vực xã hội khác; mở rộng và khai thác sâu những nội dung của Kế hoạch quản lý phát triển Phnôm Pênh; ủng hộ Viện Mê Công thực hiện những chức năng được giao phó; tăng cường phòng, chống dịch bệnh truyền nhiễm tại các khu vực biên giới; .

Thuận lợi hóa thương mại: Hài hòa và thống nhất các thủ tục và hệ thống quản lý nhằm tạo thuận lợi cho di chuyển qua biên giới, cụ thể trong các lĩnh vực hải quan, di cư, kiểm dịch và thúc đẩy các dịch vụ hỗ trợ thương mại;

Ðầu tư: Thúc đẩy sự hợp tác về đầu tư và tăng cường sự tham gia của Diễn đàn Doanh nghiệp tiểu vùng trong tiến trình hợp tác GMS.

Chúng tôi yêu cầu các Bộ trưởng, quan chức cấp cao, và các cơ quan chính phủ phối hợp chặt chẽ nhằm bảo đảm Kế hoạch hành động này được thực hiện hiệu quả và đúng thời hạn.

16. Chúng tôi nhận thức sự cần thiết huy động sự hỗ trợ và nguồn tài chính lớn hơn nhằm triển khai Kế hoạch Hành động. Theo đó, chúng tôi sẽ: (i) Tăng cường tính tự chủ và sự tham gia nhiều bên vào chương trình GMS; (ii) Thúc đẩy sự hợp tác giữa các chính phủ và doanh nghiệp GMS nhằm khuyến khích thương mại, đầu tư, du lịch và các lĩnh vực kinh tế-xã hội khác; (iii) Tăng cường huy động các nguồn lực cho các dự án ưu tiên của tiểu vùng. Chúng tôi cũng sẽ củng cố các khung thể chế và cơ chế để thúc đẩy những tiến triển trong hợp tác GMS.

17. Chúng tôi nhận thức đầy đủ và đánh giá cao vai trò đặc biệt của ADB với tư cách là đối tác thúc đẩy, cố vấn và tài trợ. Sự tham gia của ADB đã giúp đưa đến những thành công của GMS ngày nay. Chúng tôi cũng cảm ơn các đối tác phát triển khác đã tin tưởng và đóng góp thiết thực cho các nỗ lực hợp tác tiểu vùng. Chúng tôi đề nghị ADB và các đối tác phát triển tiếp tục hỗ trợ chương trình GMS bằng những nguồn lực và sự chuyển giao tri thức nhằm đưa GMS trở thành trung tâm hội nhập kinh tế trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương.

Kết luận

18. Mười lăm năm trước đây, thật khó để hình dung sự thay đổi của tiểu vùng GMS ngày nay hoặc để nhận thức đầy đủ những đóng góp của chương trình GMS vào sự thay đổi này. Sự thay đổi ngày nay đem lại lợi ích to lớn cho các nước và người dân trong tiểu vùng và gắn liền với chương trình GMS. Sự liên kết kinh tế-thương mại giữa các nước trong tiểu vùng đã làm gia tăng đáng kể sự đầu tư vào phát triển nguồn nhân lực và thể chế do được thúc đẩy bởi những tiến bộ về kết nối hạ tầng, cũng như sự tăng cường ý thức cộng đồng và nhận thức về những lợi ích chung của sự hợp tác.

19. Hướng tới tương lai, chúng tôi cam kết gìn giữ và phát huy những thành quả đạt được. Tương lai GMS là do chúng tôi quyết định. Chúng tôi sẽ tăng cường sự hợp tác, phối hợp và hành động thống nhất để hiện thực hóa tầm nhìn về một tiểu vùng hội nhập, hài hòa và thịnh vượng.

 

 

Nguồn: Nhân Dân