Năng lượng: Giá dầu tăng 2% lên mức cao nhất 4 tháng do xuất khẩu từ Iraq và Saudi Arabia giảm.
Chốt phiên giao dịch đầu tuần, giá dầu tăng khoảng 2% lên mức cao nhất 4 tháng do xuất khẩu dầu thô của Iraq và Saudi Arabia giảm và các dấu hiệu về nhu cầu và tăng trưởng kinh tế mạnh hơn ở Trung Quốc và Mỹ.
Kết thúc phiên, giá dầu Brent giao sau tăng 1,55 USD, tương đương 1,8%, lên 86,89 USD/thùng, trong khi dầu ngọt nhẹ (WTI) của Mỹ tăng 1,68 USD, tương đương 2,1%, lên 82,72 USD/thùng.
Cả hai loại dầu đã rơi vào vùng mua quá về mặt kỹ thuật, với dầu Brent kết thúc
ở mức cao nhất kể từ ngày 31/10 và dầu WTI cao nhất kể từ ngày 27/10.
Tại các thị trường năng lượng khác, giá xăng Mỹ kỳ hạn tương lai kết thúc ở mức cao nhất kể từ ngày 31/8.
Iraq, nhà sản xuất lớn thứ hai của OPEC, cho biết họ sẽ giảm xuất khẩu dầu thô xuống 3,3 triệu thùng/ngày (bpd) trong những tháng tới để bù đắp cho việc OPEC+ vượt hạn ngạch kể từ tháng 1.
Trong tháng 1 và tháng 2/2024, Iraq đã bơm nhiều dầu hơn đáng kể so với mục tiêu sản lượng được thiết lập vào tháng 1 khi một số thành viên của Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) và các đồng minh như Nga, một nhóm được gọi là OPEC +, đồng ý hỗ trợ thị trường.
Tại Saudi Arabia, nhà sản xuất lớn nhất OPEC, xuất khẩu dầu thô giảm tháng thứ hai liên tiếp, xuống còn 6,297 triệu thùng/ngày trong tháng 1/2024 từ mức 6,308 triệu thùng/ngày trong tháng 12/2023.
Trong khi đó, tại Nga, các cuộc tấn công vào cơ sở hạ tầng năng lượng đã khiến khoảng 7% công suất lọc dầu ngừng hoạt động trong quý đầu tiên, theo phân tích của Reuters.
Những người tham gia thị trường cho biết việc ngừng hoạt động của nhà máy lọc dầu sẽ thúc đẩy Nga tăng xuất khẩu dầu qua các cảng phía Tây trong tháng 3 thêm gần 200.000 thùng/ngày lên khoảng 2,15 triệu thùng/ngày.
Trong khi đó, tại Mỹ, sản lượng dầu từ các khu vực sản xuất đá phiến hàng đầu sẽ tăng trong tháng 4 lên mức cao nhất 4 tháng.
Tại Trung Quốc, quốc gia nhập khẩu dầu lớn nhất thế giới, sản lượng nhà máy và doanh số bán lẻ đã vượt kỳ vọng trong giai đoạn từ tháng 1 đến tháng 2, đánh dấu sự khởi đầu vững chắc cho năm 2024 và mang lại một số cứu trợ cho các nhà hoạch định chính sách ngay cả khi sự yếu kém trong lĩnh vực bất động sản vẫn là lực cản đối với nền kinh tế và niềm tin của người tiêu dùng. Sản lượng dầu thô của Trung Quốc trong tháng 1 và tháng 2 tăng 3% so với cùng kỳ năm trước do các nhà máy lọc dầu tăng sản lượng để đáp ứng nhu cầu nhiên liệu vận tải mạnh mẽ trong thời gian du lịch Tết Nguyên đán bận rộn.
Tại nền kinh tế lớn nhất thế giới, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) được nhiều người kỳ vọng sẽ giữ nguyên lãi suất khi kết thúc cuộc họp chính sách kéo dài hai ngày mới nhất vào thứ Tư.
Tăng trưởng kinh tế Mỹ mạnh hơn dự kiến và lạm phát gia tăng trong năm nay đã khiến các nhà đầu tư đẩy lùi kỳ vọng về đợt cắt giảm lãi suất đầu tiên của Fed từ tháng 5 sang tháng 6, đồng thời giảm đặt cược vào số lần cắt giảm có thể xảy ra trong năm nay.
Lãi suất thấp hơn sẽ làm giảm chi phí mua hàng hóa và dịch vụ, điều này có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tăng nhu cầu dầu mỏ.
Trong một động thái dự kiến sẽ thúc đẩy nhu cầu dầu, Bộ trưởng Năng lượng Mỹ Jennifer Granholm cho biết dự trữ dầu thô tại Cục Dự trữ Dầu mỏ Chiến lược (SPR) vào cuối năm sẽ bằng hoặc vượt mức tồn tại trước đợt bán hàng lớn hai năm trước.
Trong một tin tức khác của Mỹ dự kiến sẽ thúc đẩy nhu cầu dầu, nhà máy lọc dầu công suất 435.000 thùng/ngày của BP ở Whiting, Indiana đã trở lại hoạt động bình thường lần đầu tiên kể từ khi mất điện vào tháng Hai.
Kim loại quý: Giá vàng tăng sau khi giảm xuống mức thấp nhất 1 tuần khi các nhà đầu tư chờ đợi một loạt các cuộc họp của ngân hàng trung ương trong tuần này, bao gồm cả quyết định chính sách của Fed vào thứ Tư để nắm bắt manh mối về lạm phát và lãi suất.
Giá vàng giao ngay tăng 0,2% lên 2.159,69 USD/ounce, sau khi có lúc giảm xuống mức thấp nhất kể từ ngày 7/3. Giá vàng thỏi đã đạt mức cao kỷ lục 2.194,99 USD vào ngày 8/3/2024. Giá vàng kỳ hạn tháng 4 tăng 0,1% lên 2.164,3 USD.
Giá bạc giao ngay phiên này giảm 0,4% xuống 25,06 USD, bạch kim giảm 1,8% xuống 916,19 USD mỗi ounce và palladium giảm 4,2% xuống 1.031,73 USD.
Daniel Pavilonis, chiến lược gia thị trường cấp cao của RJO Futures cho biết: “Vàng đang chờ đợi quyết định lãi suất vào thứ Tư, nhưng cũng có thể là quyết định lãi suất của Ngân hàng Trung ương Nhật Bản - có thể cho thấy lạm phát toàn cầu đang gia tăng và rõ ràng vàng là một hàng rào phòng ngừa lạm phát toàn cầu”.
Vàng thỏi đã giảm khoảng 1% trong tuần trước sau khi dữ liệu cho thấy giá tiêu dùng của Mỹ tăng ổn định trong tháng 2 và giá sản xuất tăng cao hơn dự kiến, cho thấy lạm phát có phần ổn định.
Mặc dù vàng theo truyền thống được coi là một công cụ phòng ngừa lạm phát, lãi suất cao hơn để kiềm chế giá cả tăng cao không khuyến khích đầu tư vào vàng thỏi.
Ngân hàng Trung ương Nhật Bản dự kiến sẽ thoát khỏi chính sách tiền tệ rất ôn hòa tại cuộc họp kéo dài hai ngày kết thúc vào thứ Ba. Ngân hàng Trung ương Anh sẽ tổ chức cuộc họp vào thứ Năm và dự kiến sẽ giữ nguyên lãi suất. Thị trường cũng dự đoán không có thay đổi về lãi suất vào cuối cuộc họp chính sách kéo dài hai ngày của Fed vào thứ Tư, nhưng đang dự đoán 53% khả năng Fed sẽ cắt giảm lãi suất vào tháng 6.
Ông Pavilonis nói thêm: “Tôi nghĩ những thay đổi trong biểu đồ dấu chấm, kỳ vọng về quỹ Fed sẽ đóng một vai trò trong việc liệu vàng có tiếp tục xu hướng tăng hay không”.
Kim loại công nghiệp: Giá đồng đạt mức cao nhất trong 11 tháng khi Trung Quốc cắt giảm sản lượng và đồng USD yếu đi kích hoạt việc mua vào.
Một thỏa thuận hiếm hoi của các nhà máy luyện đồng của Trung Quốc nhằm cắt giảm sản lượng vào tuần trước đang thúc đẩy giá đồng tăng mạnh lên mức cao 9.164,50 USD/tấn trên Sàn giao dịch kim loại London (LME). Trên Sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải (ShFE), giá kim loại được sử dụng trong ngành điện và xây dựng này cũng đạt mức cao kỷ lục 73.440 nhân dân tệ.
Giá đồng kỳ hạn 3 tháng trên sàn LME kết thúc phiên tăng 0,1% lên 9.085 USD/tấn.
Dan Smith, người đứng đầu bộ phận nghiên cứu tại Amalgamated Metal Trading, cho biết: “Phản ứng đối với việc các nhà luyện đồng của Trung Quốc cắt giảm sản lượng là rất lớn… Hiện tại tình hình có vẻ hơi lộn xộn”. “Dữ liệu vĩ mô của Trung Quốc chắc chắn đang được cải thiện.”
Sản lượng công nghiệp của Trung Quốc tăng 7% trong tháng 1/2024 và tháng 2/2024, tốc độ nhanh nhất trong gần hai năm. Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng kéo dài trong lĩnh vực bất động sản của Trung Quốc, trụ cột chính của nền kinh tế, vẫn là mối lo ngại lớn và dữ liệu từ lĩnh vực này hôm thứ Hai không mang lại nhiều sự hỗ trợ.
Nhà tư vấn Edward Meir của Marex cho biết: “Theo quan điểm của chúng tôi, sự yếu kém đang diễn ra trong lĩnh vực bất động sản bù đắp phần lớn tác động tích cực của sự phục hồi khiêm tốn được thấy ở các chỉ số khác”.
Đối với các kim loại cơ bản khác, giá niken chịu áp lực từ lượng tồn kho của sàn LME tăng lên mức cao nhất trong hai năm là 77.424 tấn. Tuy nhiên, nhu cầu mạnh hơn dự kiến trước đây có thể sẽ hỗ trợ giá thành phần thép không gỉ. Niken kỳ hạn ba tháng kết thúc phiên giảm 1% xuống 17.890 USD/tấn.
Nhìn chung, kim loại được hỗ trợ bởi đồng tiền Mỹ yếu đi, khiến hàng hóa được định giá bằng đồng đô la trở nên rẻ hơn đối với những người nắm giữ các loại tiền tệ khác.
Giá nhôm trên sàn LME kết thúc phiên ổn định ở mức 2.274 USD/tấn, kẽm giảm 1,4% xuống 2.526 USD, chì giảm 1,8% xuống 2.091 USD và thiếc tăng 0,1% lên 28.710 USD.
Doanh số bán hàng bán dẫn tăng mạnh dự kiến sẽ thúc đẩy giá thiếc - kim loại hàn, hiện đang giao dịch gần mức cao nhất kể từ tháng 7 năm ngoái.
Trong nhóm kim loại đen, giá quặng sắt kỳ hạn tương lai tăng trở lại sau khi dữ liệu lạc quan ở Trung Quốc làm dấy lên hy vọng về sự phục hồi nhu cầu thép trong những tuần tới.
Hợp đồng quặng sắt giao tháng 5/2024 trên Sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên (DCE) của Trung Quốc kết thúc giao dịch tăng 0,9% ở mức 803 nhân dân tệ (111,56 USD)/tấn, sau khi giảm 11% vào cuối tuần trước. Quặng sắt kỳ hạn tháng 4/2024 trên Sàn giao dịch Singapore tăng 3,7% lên 103,65 USD/tấn.
Trên sàn Thượng Hải, giá thép cây tăng 0,3%, thép cuộn cán nóng tăng 0,7%, thép không gỉ tăng 1,4%, trong khi thanh thép giảm 0,3%.
Đầu tư vào lĩnh vực bất động sản tại Trung Quốc trong 2 tháng đầu năm đã giảm 9% so với cùng kỳ năm ngoái, so với mức giảm 24% trong tháng 12/2023.
Dữ liệu cho thấy hoạt động cho vay mới của các ngân hàng Trung Quốc trong tháng 2 so với mức cao kỷ lục của tháng trước giảm nhiều hơn dự kiến và ngân hàng chính sách của Trung Quốc giữ nguyên lãi suất chính sách chủ chốt trong khi rút tiền mặt từ hoạt động cho vay chính sách trung hạn.
Góp phần giúp tâm lý thị trường lạc quan cũng bởi thông tin tổng lượng hàng xuất khẩu từ Australia và Brazil - hai nhà cung cấp quặng sắt lớn - trong tuần kết thúc vào ngày 18 tháng 3 giảm 12,5% so với tuần trước xuống 22,08 triệu tấn, dữ liệu từ công ty tư vấn Mysteel cho thấy.
Các nhà phân tích cho biết nhu cầu quặng yếu trong thời gian ngắn là lực cản đối với tâm lý thị trường và giá cả.
Theo dữ liệu của Mysteel, sản lượng kim loại nóng trung bình hàng ngày của các nhà sản xuất thép Trung Quốc được khảo sát đã giảm tuần thứ tư liên tiếp trong tuần kết thúc vào ngày 15 tháng 3, giảm 0,6% so với tuần trước xuống 2,21 triệu tấn.
Sản lượng thép thô của Trung Quốc trong hai tháng đầu năm 2024 tăng 1,6% so với một năm trước đó, khiến thị trường dự đoán sản lượng sẽ giảm trong giai đoạn nhu cầu thấp khi nhiều nhà sản xuất thép tiến hành công việc bảo trì.
Nông sản: Giá lúa mì Mỹ kỳ hạn tương lai tăng hơn 2% khi các cuộc tấn công vào các cảng của Ukraine cho thấy rủi ro gia tăng đối với nguồn cung ngũ của khu vực Biển Đen.
Tuy nhiên, giá đậu tương kỳ hạn giảm khi vụ thu hoạch của Brazil tiến triển, thúc đẩy nông dân bán hạt có dầu. Giá ngô giảm trong không khí giao dịch thưa thớt.
Kết thúc phiên, trên sàn Chicago, giá lúa mì kỳ hạn tháng 5/2024 tăng 12-3/4 cent lên 5,41-1/3 USD/bushel; đậu tương kỳ hạn tháng 5/2024 giảm 7-1/4 cent xuống 11,91 USD/bushel; ngô kỳ hạn tháng 5/2024 giảm 1-1/2 cent xuống 4,35-1/4 USD/bushel.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 5 tăng 0,1% lên 22,15 cent/lb; đường trắng kỳ hạn tháng 5 tăng 0,4% lên 626 USD/tấn.
Các đại lý cho biết giá tiếp tục tăng bởi những lo ngại rằng điều kiện khô hạn sẽ làm giảm quy mô vụ mía ở khu vực Trung Nam của Brazil trong niên vụ 2024/25 sắp tới.
Giá cà phê robusta kỳ hạn tháng 5 tăng 0,9% lên 3.339 USD/tấn; cà phê arabica kỳ hạn tháng 5 tăng 0,03% lên 1,83 USD/lb.
Các đại lý cho biết nguồn cung tại nhà sản xuất robusta hàng đầu thế giới - Việt Nam - vẫn thắt chặt và các yếu tố cơ bản hỗ trợ đang thu hẹp mức chênh lệch giá giữa robusta với arabica.
Ngân hàng ING cho biết: “Có dự báo rằng vụ thu hoạch cà phê arabica sẽ gặp phải tình trạng dư cung trong khi cà phê Robusta sẽ thâm hụt năm thứ tư liên tiếp trong niên vụ 2024/25.”
Giá cao su kỳ hạn trên thị trường Nhật Bản tăng phiên thứ 10 liên tiếp lên mức đóng cửa cao nhất trong gần 13 năm, trong bối cảnh lo ngại về thời tiết ở nhà sản xuất hàng đầu Thái Lan và giá dầu cao hơn. Hợp đồng cao su giao tháng 8/2024 đóng cửa tăng 2,2 yên, tương đương 0,62%, lên 354,2 yên (2,37 USD)/kg, cao nhất kể từ ngày 20/9/2011.
Hợp đồng cao su trên Sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải (SHFE) giao tháng 5 đã tăng 875 nhân dân tệ đạt 15.500 nhân dân tệ (2.153 USD)/tấn. Hợp đồng cao su giao tháng trước trên nền tảng SICOM giao tháng 4 chốt phiên ở mức 173,4 US cent/kg, tăng 3,4%.
Cơ quan khí tượng Thái Lan cảnh báo bão mùa hè từ ngày 19-20/3 có khả năng gây thiệt hại mùa màng.
Trong khi đó, giá dầu tăng trong bối cảnh rủi ro gia tăng do các cuộc tấn công tiếp theo vào cơ sở hạ tầng năng lượng của Nga cũng đẩy giá cao su tăng lên, bởi cao su tự nhiên thường chịu sự điều chỉnh của giá dầu khi cạnh tranh thị phần với cao su tổng hợp được sản xuất từ dầu thô.
Ấn Độ giảm thuế nhập khẩu đối với một số loại xe điện do các nhà sản xuất ô tô cam kết đầu tư ít nhất 500 triệu USD và bắt đầu sản xuất trong nước trong vòng 3 năm.
Bắc Kinh báo cáo sản lượng công nghiệp tăng 7% hàng năm trong tháng 1 và tháng 2, trong khi doanh số bán lẻ tăng 5,5% so với cùng kỳ năm ngoái.
Tỷ lệ hoạt động của các nhà sản xuất lốp xe Trung Quốc trong tuần kết thúc vào ngày 14 tháng 3 tăng từ 0,7% đến 0,99% so với tuần trước, Cinda Securities cho biết trong báo cáo hàng tuần.

Giá hàng hóa thế giới

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

82,56

-0,16

-0,19%

Dầu Brent

USD/thùng

86,74

-0,15

-0,17%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

273,79

-1,94

-0,70%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

1,72

+0,01

+0,82%

Dầu đốt

US cent/gallon

277,01

-1,81

-0,65%

Vàng (Comex)

USD/ounce

2.163,30

-1,00

-0,05%

Vàng giao ngay

USD/ounce

2.160,86

+0,50

+0,02%

Bạc (Comex)

USD/ounce

25,27

+0,01

+0,02%

Bạch kim giao ngay

USD/ounce

914,35

-3,55

-0,39%

Đồng (Comex)

US cent/lb

412,15

-0,85

-0,21%

Đồng (LME)

USD/tấn

9.089,00

+17,00

+0,19%

Nhôm (LME)

USD/tấn

2.277,50

+3,00

+0,13%

Kẽm (LME)

USD/tấn

2.532,00

-29,00

-1,13%

Thiếc (LME)

USD/tấn

28.700,00

+26,00

+0,09%

Ngô (CBOT)

US cent/bushel

437,25

+1,25

+0,29%

Lúa mì (CBOT)

US cent/bushel

542,75

0,00

0,00%

Lúa mạch (CBOT)

US cent/bushel

362,25

+3,75

+1,05%

Gạo thô (CBOT)

USD/cwt

17,82

+0,05

+0,28%

Đậu tương (CBOT)

US cent/bushel

1.189,50

+1,75

+0,15%

Khô đậu tương (CBOT)

USD/tấn

332,70

+0,80

+0,24%

Dầu đậu tương (CBOT)

US cent/lb

48,70

0,00

0,00%

Hạt cải (ICE)

CAD/tấn

631,40

-0,30

-0,05%

Cacao (ICE)

USD/tấn

8.172,00

+154,00

+1,92%

Cà phê (ICE)

US cent/lb

181,75

-1,20

-0,66%

Đường thô (ICE)

US cent/lb

22,16

+0,04

+0,18%

Nước cam cô đặc đông lạnh (ICE)

US cent/lb

360,45

-10,00

-2,70%

Bông (ICE)

US cent/lb

94,45

-0,12

-0,13%

Lông cừu (ASX)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ (CME)

USD/1000 board feet

--

--

--

Cao su Singapore

US cent/kg

174,50

-2,70

-1,52%

Ethanol (CME)

USD/gallon

2,16

0,00

0,00%

·          

 

 

 

Nguồn: Vinanet/VITIC (Theo Reuters, Bloomberg)