Trên thị trường năng lượng, giá dầu tăng 3% do tồn trữ dầu thô của Mỹ thấp hơn so với dự kiến 2 tuần liên tiếp, làm át đi lo ngại việc tăng lãi suất hơn nữa có thể khiến tăng trưởng kinh tế chậm lại và nhu cầu dầu toàn cầu giảm.
Kết thúc phiên này, dầu Brent tăng 1,77 USD, tương đương 2,5%, lên 74,03 USD/thùng, trong khi dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) tăng 1,86 USD, tương đương 2,8%, lên 69,56 USD/thùng, làm thu hẹp khoảng cách giá dầu Brent và WTI xuống mức thấp nhất kể từ ngày 9/6/2023.
Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) cho biết dự trữ dầu thô giảm 9,6 triệu thùng trong tuần kết thúc vào ngày 23/6, vượt xa mức giảm 1,8 triệu thùng mà các nhà phân tích dự báo trong cuộc thăm dò của Reuters và cũng lớn hơn nhiều so với mức giảm 2,8 triệu thùng một năm trước đó. Con số đó cũng vượt quá mức trung bình trong 5 năm từ 2018-2022.
Phil Flynn, nhà phân tích của Price Futures Group, cho biết: "Nhìn chung, những con số rất chắc chắn đã đi ngược lại với những người cho rằng thị trường đang dư cung. Báo cáo này có thể là mức đáy (đối với giá dầu)".
Các nhà đầu tư vẫn thận trọng rằng việc tăng lãi suất có thể làm chậm tăng trưởng kinh tế và giảm nhu cầu dầu mỏ.
“Nếu ai đó sẽ làm mưa làm gió trên thị trường giá lên thì đó sẽ là (Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ) Jerome Powell,” Flynn nói.
Lãnh đạo các ngân hàng trung ương hàng đầu thế giới tái khẳng định rằng họ thấy cần thắt chặt chính sách hơn nữa để chế ngự lạm phát. Ông Powell không loại trừ khả năng tăng lãi suất trong các cuộc họp liên tiếp của Fed, trong khi Chủ tịch Ngân hàng Trung ương châu Âu Christine Lagarde xác nhận kỳ vọng ngân hàng sẽ tăng lãi suất vào tháng 7, gọi động thái đó là "có thể xảy ra".
Một số nhà phân tích dự đoán thị trường sẽ thắt chặt trong nửa cuối năm, với lý do cắt giảm nguồn cung liên tục từ phía OPEC+, Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) và các đồng minh như Nga, và việc Saudi Arabia tự nguyện cắt giảm trong tháng Bảy.
Tại Trung Quốc, nước tiêu thụ dầu lớn thứ hai thế giới, lợi nhuận hàng năm tại các công ty công nghiệp đã kéo dài mức giảm hai con số trong 5 tháng đầu năm do nhu cầu giảm làm giảm lợi nhuận, củng cố hy vọng có thêm hỗ trợ chính sách cho sự phục hồi kinh tế sau đại dịch COVID-19.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng giảm xuống mức thấp nhất gần 4 tháng, do đặt cược lãi suất vẫn ở mức cao hơn trong thời gian dài hơn, trong khi chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ, Jerome Powell nhắc lại quan điểm tăng lãi suất.
Kết thúc phiên, giá vàng giao ngay giảm 0,1% xuống 1.912,49 USD/ounce, sau khi chạm mức thấp nhất kể từ giữa tháng 3/2023, vàng kỳ hạn tháng 8/2023 giảm 0,1% xuống 1.922,2 USD/ounce.
Ông Powell nhắc lại rằng ngân hàng trung ương có thể sẽ tăng lãi suất nhiều hơn nữa và không loại trừ khả năng tăng chi phí vay tại cuộc họp chính sách dự kiến vào cuối tháng 7.
Daniel Ghali, chiến lược gia hàng hóa thuộc TD Securities. cho biết: “Mặc dù thị trường đang nhận định khả năng Fed sẽ tăng lãi suất vào tháng 7, nhưng yếu tố phù hợp hơn đối với vàng là thị trường đã đồng thời xác định số lần cắt giảm mà chúng ta có thể mong đợi trong năm tới”.
Theo công cụ CME FedWatch, các thị trường đang dự đoán 82% khả năng Fed sẽ tăng lãi suất tại cuộc họp tiếp theo vào tháng 7, và ít có khả năng nới lỏng chính sách tiền tệ vào cuối năm nay.
Chỉ số USD tăng 0,4%, khiến vàng trở nên kém hấp dẫn hơn đối với người mua ở nước ngoài. Sự sụt giảm lợi suất trái phiếu kho bạc 10 năm đã hạn chế sự sụt giảm hơn nữa của giá vàng.
Nhà phân tích Giovanni Staunovo của UBS cho biết: "Dữ liệu kinh tế tốt của Mỹ vẫn là một trở ngại đối với kim loại màu vàng, vì nó có thể khiến các quan chức Fed thắt chặt tiền tệ mạnh mẽ".
Doanh số bán nhà mới dành cho một gia đình ở Mỹ đã tăng lên mức cao nhất trong gần 1,5 năm vào tháng Năm, trong khi niềm tin của người tiêu dùng cũng tăng vọt trong tháng Sáu.
Ông Staunovo nói thêm: “Chúng tôi vẫn kỳ vọng vào một thời điểm nào đó, việc thắt chặt chính sách tiền tệ mạnh mẽ sẽ làm suy yếu dữ liệu kinh tế của Mỹ và dẫn đến việc Fed thay đổi quan điểm”. Lãi suất cao không khuyến khích các nhà giao dịch đầu tư vào vàng không sinh lãi suất.
Về các kim loại quý khác, giá bạc phiên này giảm 0,3% xuống 22,81 USD/ounce, bạch kim giảm 1,4% xuống 912,20 USD sau khi chạm mức thấp nhất 8 tháng, và palladium giảm 3,7% xuống 1.248,06 USD, mức thấp nhất trong 4 năm rưỡi.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá đồng giảm xuống mức thấp nhất hơn 3 tuần do lo ngại về lợi nhuận ngành công nghiệp tại nước tiêu thụ kim loại hàng đầu thế giới (Trung Quốc) giảm và việc Mỹ tiếp tục tăng lãi suất sẽ làm giảm tăng trưởng kinh tế và nhu cầu kim loại.
Giá đồng giao sau 3 tháng trên sàn London giảm 1,2% xuống 8.263 USD/tấn, sau khi chạm mức thấp nhất kể từ ngày 5/6/2023 (8.212 USD/tấn) – giảm từ mức cao nhất 2 tháng đạt được trong tuần trước đó.
Dữ liệu hôm thứ Tư cho thấy lợi nhuận hàng năm tại các công ty công nghiệp của Trung Quốc đã kéo dài mức giảm hai con số trong 5 tháng đầu năm do nhu cầu giảm đã làm giảm lợi nhuận.
Các nhà đầu tư cũng không yên tâm về tác động của dữ liệu mạnh mẽ của Mỹ vào thứ Ba, cho thấy thị trường nhà ở đang lấy lại sức mạnh trong khi niềm tin của người tiêu dùng đạt mức cao nhất trong 17 tháng.
Kim loại chịu thêm áp lực khi Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Jerome Powell không loại trừ khả năng tăng lãi suất trong cuộc họp tiếp theo của ngân hàng trung ương.
Dự trữ đồng trên sàn giao dịch toàn cầu giảm xuống mức thấp nhất trong 15 năm, làm dấy lên mối lo ngại về nguồn cung, đặc biệt là nếu nhu cầu ở nước mua hàng đầu thế giới (Trung Quốc) bắt đầu tăng sau khi tung ra các biện pháp kích thích hơn nữa.
Về những kim loại cơ bản khác, giá nhôm giảm 1% xuống còn 2.173,50 USD/tấn, kẽm giảm 1% xuống còn 2.363,50 USD, chì giảm 1% xuống 2.076,50 USD, niken giảm 3,4% xuống còn 20.090 USD sau khi chạm mức thấp nhất gần một năm, trong khi thiếc giảm 0,8% xuống còn 20.090 USD. $26,080.
Giá quặng sắt trên thị trường châu Á tiếp tục xu hướng tăng, song mức tăng bị thu hẹp khi một số nhà đầu tư đứng ngoài thị trường do số liệu công nghiệp yếu kém tại Trung Quốc và kỳ vọng về các biện pháp kích thích mới suy giảm.
Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 9/2023 trên sàn Đại Liên tăng 2,47% lên 830,5 CNY/tấn – cao nhất kể từ ngày 15/3/2023; quặng sắt kỳ hạn tháng 7/2023 trên sàn Singapore tăng 0,78% lên 113,45 USD/tấn – cao nhất kể từ ngày 19/6/2023.
Trên sàn Thượng Hải, giá thép cây tăng 0,76%, thép cuộn cán nóng tăng 0,55%, thép cuộn tăng 0,55% và thép không gỉ tăng 0,2%.
Lợi nhuận tại các công ty công nghiệp của Trung Quốc trong 5 tháng đầu năm 2023 đã giảm 18,8% so với cùng kỳ năm ngoái, kéo dài mức giảm 20,6% trong khoảng thời gian từ tháng 1 đến tháng 4, dữ liệu từ Cục Thống kê Quốc gia (NBS) hôm thứ Tư cho thấy.
Trên thị trường nông sản, giá ngô trên sàn Chicago giảm hơn 4%, trong khi giá đậu tương giảm hơn 2%m sau khi báo mưa có lợi cho cây trồng tại khu vực trung tây Mỹ - nơi chịu ảnh hưởng bởi thời tiết khô hạn. Giá lúa mì cũng giảm do áp lực bởi vụ thu hoạch lúa mì mùa đông của Mỹ mở rộng và ước tính diện tích Canada lớn hơn dự kiến ban đầu.
Trên sàn Chicago, giá ngô kỳ hạn tháng 12/2023 giảm 24-1/4 US cent xuống 5,36-3/4 USD/bushel, sau khi chạm 5,34 USD/bushel – thấp nhất kể từ ngày 9/6/2023; đậu tương kỳ hạn tháng 11/2023 giảm 29-1/4 US cent xuống 12,65 USD/bushel; lúa mì kỳ hạn tháng 9/2023 giảm 29-1/4 US cent xuống 6,69-3/4 USD/bushel.
Tại Canada, nông dân đã gieo 26,9 triệu acres lúa mì năm 2023, mức cao nhất trong 22 năm, báo cáo của chính phủ cho biết. Con số này cao hơn kỳ vọng trung bình của ngành là 26,5 triệu acres. Những người trồng trọt ở Canada cũng trồng nhiều cải dầu hơn so với dự báo của ngành.
Trong khi đó, vụ thu hoạch lúa mì năm 2023 của Ukraine có thể đạt ít nhất 24 triệu tấn trong năm nay, vượt xa kỳ vọng chính thức và phục hồi gần bằng mức trước chiến tranh, cơ quan thương nhân ngũ cốc của Ukraine cho biết.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 7/2023 trên sàn ICE giảm 1,7% xuống 22,64 US cent/lb, trong đầu phiên giao dịch chạm mức thấp nhất 3 tháng (22,46 US cent/lb); đường trắng kỳ hạn tháng 8/2023 trên sàn London tăng 0,2% lên 628,7 USD/tấn, sau khi chạm mức thấp nhất kể từ cuối tháng 3/2023 (614,5 USD/tấn) trong phiên ngày 26/6/2023.
Nội các Ấn Độ hôm thứ Tư đã thông qua việc tăng giá sàn mà các nhà máy đường phải trả cho vụ mía tới - một động thái có thể khuyến khích nông dân trồng thêm đồng thời thúc đẩy chính phủ cho phép xuất khẩu mía ra nước ngoài.
Các đại lý cho biết thị trường giảm mạnh trong tuần qua chủ yếu là do sự thay đổi trong tâm lý đã thúc đẩy các quỹ thanh lý các vị thế mua của họ.
Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 9/2023 trên sàn ICE giảm 3,1% xuống 1,618 USD/lb – thấp nhất kể từ cuối tháng 1/2023 (1,612 USD/lb); cà phê robusta kỳ hạn tháng 9/2023 trên sàn London giảm 3,5% xuống 2.620 USD/tấn.
Giá cao su trên thị trường Nhật Bản duy trì ổn định do giá dầu thô và thị trường chứng khoán nội địa tăng mạnh, bù đắp tác động tiêu cực từ việc lợi nhuận công nghiệp tại Trung Quốc suy giảm.
Giá cao su kỳ hạn tháng 12/2023 trên sàn Osaka kết thúc phiên không thay đổi ở mức 205,6 JPY (1,43 USD)/kg; cao su kỳ hạn tháng 9/2023 trên sàn Thượng Hải cũng không thay đổi ở mức 11.935 CNY (1.650,08 USD)/tấn. Giá cao su kỳ hạn tháng 7/2023 trên sàn Singapore giảm 0,4% xuống 130,8 US cent/kg.
Giá hàng hóa thế giới:
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
69,40
|
-0,16
|
-0,23%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
73,86
|
-0,17
|
-0,23%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
66.290,00
|
-50,00
|
-0,08%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,60
|
-0,16
|
-5,79%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
261,07
|
+0,73
|
+0,28%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
241,50
|
+0,83
|
+0,34%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
702,25
|
-1,75
|
-0,25%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
78.000,00
|
0,00
|
0,00%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.914,30
|
-7,90
|
-0,41%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
8.836,00
|
-21,00
|
-0,24%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
22,97
|
-0,12
|
-0,52%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
103,80
|
-2,10
|
-1,98%
|
Bạch kim
|
USD/ounce
|
918,48
|
+3,44
|
+0,38%
|
Palađi
|
USD/ounce
|
1.260,24
|
-2,12
|
-0,17%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
373,70
|
-0,55
|
-0,15%
|
Đồng LME
|
USD/tấn
|
8.255,00
|
-108,00
|
-1,29%
|
Nhôm LME
|
USD/tấn
|
2.173,50
|
-21,50
|
-0,98%
|
Kẽm LME
|
USD/tấn
|
2.349,50
|
-37,00
|
-1,55%
|
Thiếc LME
|
USD/tấn
|
26.047,00
|
-236,00
|
-0,90%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
541,25
|
+4,50
|
+0,84%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
670,50
|
+0,75
|
+0,11%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
410,75
|
+2,00
|
+0,49%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
15,10
|
+0,07
|
+0,43%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
1.271,75
|
+6,75
|
+0,53%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
380,10
|
+2,10
|
+0,56%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
55,79
|
+0,21
|
+0,38%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
701,80
|
+1,30
|
+0,19%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
3.338,00
|
+80,00
|
+2,46%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
161,95
|
-5,00
|
-2,99%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
22,60
|
-0,38
|
-1,65%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
255,35
|
-5,15
|
-1,98%
|
Bông
|
US cent/lb
|
77,48
|
+0,12
|
+0,16%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
--
|
--
|
--
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
128,70
|
-1,10
|
-0,85%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
2,16
|
0,00
|
0,00%
|