Năng lượng: Giá dầu giảm
Phiên giao dịch cuối cùng của tháng 6 (30/6), giá dầu giảm khoảng 3% khi OPEC+ khẳng định mức tăng sản lượng trong tháng 8 sẽ theo đúng kế hoạch từ trước bất chấp nguồn cung toàn cầu thắt chặt. Giá dầu giảm còn do lo ngại rằng các ngân hàng trung ương quyết tâm kiềm chế lạm phát sẽ cản trở tăng trưởng kinh tế toàn cầu, từ đó làm giảm nhu cầu nhiên liệu.
Kết thúc phiên này, dầu Brent kỳ hạn tháng 9 giảm 3,42 USD, hay 3%, xuống 109,03 USD/thùng; kỳ hạn tháng 8 - đáo hạn trong phiên này - giảm 1,45 USD hay 1,3% xuống 114,81 USD/thùng. Dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) phiên này giảm 4,02 USD, hay 3,7% ,xuống 105,76 USD/thùng.
Tính chung trong tháng 6, giá dầu Brent giảm khoảng 3%, trong khi dầu WTI giảm khoảng 5%, là tháng giảm đầu tiên kể từ tháng 11/2021.
Tổ chức các nhà sản xuất OPEC+ gồm cả Nga, hôm 30/6 cho biết họ sẽ bám sát kế hoạch tăng sản lượng dầu vào tháng 8, song không thảo luận về chính sách cho tháng 9 trở đi. Trước đó, OPEC+ đã quyết định tăng sản lượng mỗi tháng thêm 648.000 thùng/ngày vào tháng 7 và 8.
Giá dầu phiên này giảm theo xuh hướng chứng khoán Phố Wall. Chỉ số S&P 500 trong 6 tháng đầu năm so với cùng kỳ giảm tồi tệ nhất kể từ năm 1970, do lo ngại rằng các ngân hàng trung ương quyết tâm kiềm chế lạm phát sẽ gây thiệt hại cho tăng trưởng kinh tế.
Tuy nhiên, sự gián đoạn nguồn cung có thể hạn chế đà giảm trong bối cảnh Libya dừng xuất khẩu từ hai cảng phía đông trong khi sản lượng của Ecuador giảm vì các cuộc biểu tình liên tục.
Tại Na Uy, 74 công nhân khai thác dầu ngoài khơi tại các giàn khoan Gudrun, Oseberg South và Oseberg East của Equinor sẽ đình công từ ngày 5/7, có khả năng khiến khoảng 4% sản lượng dầu của Na Uy phải đóng cửa.
Trong khi đó, Phó Thủ tướng Nga Alexander Novak cho biết hôm thứ Năm rằng giới hạn giá nhập khẩu có thể áp dụng đối với dầu của Nga có thể đẩy giá lên cao hơn. Các lệnh trừng phạt đối với dầu mỏ Nga kể từ khi xung đột Nga – Ukraine đã khiến giá năng lượng tăng cao, gây lo sợ về lạm phát và suy thoái.
Kim loại quý: Giá vàng quý 2 giảm mạnh nhất trong hơn một năm
Giá vàng giảm trong phiên cuối cùng của tháng 6 và tính chung cả quý 2 cũng giảm do chính sách cứng rắn từ các ngân hàng trung ương trên toàn cầu đã làm giảm sức hấp dẫn đối với tài sản không sinh lời như vàng.
Kết thúc phiên này, giá vàng giao ngay giảm 0,6% xuống 1.806,55 USD/ounce, tính chung cả quý giảm hơn 6% - mức giảm nhiều nhất trong vòng 5 quý; vàng Mỹ kỳ hạn tháng 8 kết thúc phiên giảm 0,6% xuống 1.807,3 USD/ounce.
Vàng đã có lúc tăng trong phiên này sau số liệu cho thấy chỉ số giá chi tiêu tiêu dùng cá nhân tại Mỹ trong tháng 5/2022 đã tăng 6,3% sau khi tăng mức tương ứng trong tháng 4/2022. Tuy nhiên, giá vàng đã nhanh chóng quay trở lại giao dịch trong biên độ hẹp ghi nhận được trong vài phiên trước đó.
Chỉ số USD tăng lên gần mức cao nhất hai thập kỷ và tăng 6% trong quý này, khiến vàng trở nên đắt hơn đối với những người mua bằng các loại tiền khác.
Về những kim loại quý khác, trong phiên 30/6, giá bạc giao ngay giảm 1,8% xuống 20,33 USD/ounce, giá bạch kim giảm 2,1% xuống 897,90 USD/ounce, còn giá palladium giảm 1,3% xuống 1.936,07 USD/ounce.
Jim Wyckoff, nhà phân tích cấp cao của Kitco Metals cho biết vàng khép lại quý 2 trong xu hướng giảm do các đề xuất chính sách thắt chặt hơn của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed). Ngoài ra, có nhiều khả năng những lo lắng về suy thoái kinh tế sẽ làm giảm nhu cầu đối với nhiều loại hàng hóa.
Vàng thường được hưởng lợi từ lạm phát cao, nhưng lãi suất tăng làm tăng chi phí cơ hội nắm giữ tài sản không sinh lời như vàng.
Nhà phân tích Wyckoff cho hay ban đầu số liệu trên đã cung cấp cho các nhà giao dịch ý tưởng rằng vì lạm phát không tồi tệ hơn tháng trước, có lẽ Fed sẽ không quá mạnh tay, qua đó hỗ trợ vàng. Tuy nhiên, thị trường vẫn đang giảm mạnh và những người bán đầu cơ đã "vào cuộc" để đẩy giá xuống.
Tại hội nghị thường niên của Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) ở Bồ Đào Nha, các lãnh đạo của các ngân hàng trung ương hàng đầu thế giới cho biết việc giảm lạm phát đang ở mức cao sẽ rất khó khăn và có thể làm giảm tốc độ tăng trưởng, nhưng cần phải nhanh chóng đưa ra các biện pháp để ngăn chặn đà tăng giá kéo dài.
Kim loại công nghiệp: Giá giảm
Giá đồng giảm trong phiên cuối tháng 6, tính chung cả tháng đã giảm mạnh nhất kể từ năm 2011 do việc Trung Quốc phong tỏa chống Covid-19 kéo dài và tăng trưởng kinh tế đang chậm lại đã hạn chế nhu cầu.
Giá đồng giao sau ba tháng trên sàn giao dịch kim loại London (LME) giảm 1,6% xuống 8.265,5 USD/tấn, giảm 20,3% kể từ đầu tháng 4, tính chung trong quý 2 giảm 20,3%. Giá kim loại này đã từng giảm 19,8% trong quý 1/2020 do Covid-19 lây lan ra toàn cầu.
Các kim loại công nghiệp khác cũng có quý tồi tệ nhất trong nhiều năm, giảm từ 20% đến 40%. USD có quý tăng mạnh nhất kể từ năm 2016, khiến các kim loại đắt hơn cho người mua bằng các đồng tiền khác. Hoạt động sản xuất của Trung Quốc tăng nhẹ trong tháng 6 sau 3 tháng sụt giảm vì phong tỏa Covid.
Kết thúc phiên 30/6, giá nhôm trên sàn LME giảm 1% xuống 2.445,50 USD/tấn và giảm 30% trong quý 2; kẽm giảm 6,1% xuống 3,155 USD và giảm 24% trong quý 2; nickel giảm 4,3% xuống 22.745 USD và giảm 29% trong quý 2; chì giảm 0,4% xuống 1.925,50 USD/tấn và giảm 20% trong quý 2; thiếc giảm 2% xuống 26.250 đô la và giảm 39% trong quý 2.
Mức giảm hàng quý đối với cả năm kim loại là mức giảm lớn nhất trong ít nhất một thập kỷ.
Nhiều nhà phân tích lo ngại giá kim loại sẽ giảm hơn nữa trong ngắn hạn, khi các ngân hàng trung ương tăng lãi suất nhanh chóng sẽ kìm hãm sự phát triển.
Nhà phân tích Daniel Briesemann thuộc Commerzbank dự kiến giá đồng có thể giảm xuống mức 7.000 – 7.500 USD trong quý 3, nhưng sẽ tăng trở lại vào cuối năm.
Giá quặng sắt châu Á quý 2 cũng giảm do những lo ngại kéo dài về nhu cầu đối với thành phần sản xuất thép tại Trung Quốc, nước sản xuất thép hàng đầu thế giới.
Trên sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên, phiên 30/6, giấ quặng sắt kỳ hạn tháng 9 đóng cửa giảm 2,2% xuống 791 CNY/tấn sau 4 phiên tăng liên tiếp, cả quý giảm hơn 10%. Trong khi đó, trên sàn Singapore, hợp đồng quặng sắt giao tháng 7 giảm 1,5% xuống 120,9 USD/tấn và đánh dấu tháng giảm thứ 3 liên tiếp. Trên thị trường giao ngay, quặng sắt hàm lượng 62% Fe nhập khẩu vào Trung Quốc được giao dịch ở mức 124 USD/tấn trong ngày 29/6, theo số liệu của công ty SteelHome. Giá thép thanh tại Thượng Hải tăng 0,2%, thép cuộn cán nóng ổn định. Thép không gỉ tăng 1,3%.
Như vậy, giá quặng sắt Đại Liên đã đạt mức đỉnh năm nay tại 948 CNY/tấn trong ngày 6/6, trong khi quặng sắt tại Singapore tăng lên 168,65 USD/tấn trong ngày 8/3, được hỗ trợ bởi những kích thích bổ sung cho nền kinh tế Trung Quốc. Giá quặng 62% sắt nhập khẩu cũng giảm 24% trong năm nay, từ mức đỉnh 163 USD/tấn đạt được trong ngày 7/3.
Chính sách zero-Covid và thời tiết không thuận lợi cho hoạt động xây dựng gây sức ép lên thị trường sắt thép trong những tuần gần đây, cùng với những hy vọng ngày càng mờ nhạt về hỗ trợ kinh tế hơn nữa.

Nông sản: Giá hầu hết giảm trong tháng 6, ngoại trừ lúa mì và đường

Trong tháng 6/2022, giá nông sản đồng loạt giảm, theo đó đậu tương giảm mạnh nhất, mất khoảng 22%, tiếp đến là cà phê giảm khoảng 21%, trong khi ngô và cao su mất khoảng 4-8%. Tuy nhiên, giá lúa mì và đường tháng này tăng nhẹ, thêm khoảng hơn 3%.
Phiên 30/6, giá ngô và đậu tương xuống mức thấp nhiều tháng khi dự trữ ngũ cốc trong báo cáo hàng quý của USDA phù hợp với dự đoán và trồng trọt vượt ước tính.
Giá đậu tương kỳ hạn tháng 8 trên sàn giao dịch Chicago đóng cửa giảm 11 US cent xuống 15,6 USD/bushel trong khi đậu tương vụ mới kỳ hạn tháng 11 giảm 20-1/4 US cent xuống 14,58 USD/bushel.
Thị trường đậu tương đang bị tác động bởi 2 yếu tố trái chiều: ước tính diện tích trồng của Mỹ ít hơn dự kiến và dự trữ thắt chặt bị lấn át bởi những lo ngại về kinh tế khi thị trường chứng khoán và năng lượng giảm giá. Tuy nhiên, xu hướng giảm được hạn chế bởi dữ liệu từ Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) cho thấy diện tích trồng đậu tương của Mỹ thấp hơn dự báo.
Giá ngô kỳ hạn tháng 9 phiên này giảm 35-1/4 US cent xuống 6,28-3/4 USD/bushel, ngô vụ mới kỳ hạn tháng 12 giảm 34 US cent xuống 6,19-3/4 USD/bushel. Cả hai hợp đồng đóng cửa ở mức thấp nhất kể từ đầu tháng 3. Giá lúa mì kỳ hạn tháng 9 giảm 46 US cent xuống 8,84 USD/bushel, thấp nhất 4 tháng.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 7, đáo hạn trong phiên 30/6, tăng 0,28 US cent hay 1,5% lên 18,83 US cent/lb, cao nhất một tuần; đường trắng kỳ hạn tháng 8 đóng cửa tăng 2,8 USD hay 0,5% lên 556,6 USD/tấn. Nhu cầu giao ngay tốt ngay cả sau khi Ấn Độ xuất khẩu nhiều trong niên vụ này.
Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 9 đóng cửa tăng 1,85 US cent hay 0,8% lên 2,301 USD/lb, sau khi tăng 4,8% trong phiên liền trước; cà phê robusta kỳ hạn tháng 9 giảm 16 USD hay 0,8% xuống 2.033 USD/tấn.
Lượng cà phê lưu kho của sàn ICE hiện ở mức thấp nhất 22 năm, dấu hiệu nguồn cung khan kiếm trong ngắn hạn và lo ngại thời tiết khô ở Brazil có thể dẫn tới sản lượng giảm.
Tại Châu Á, giá cà phê Việt Nam tuần này do nguồn cung khan hiếm vào cuối vụ, USD mạnh lên và dự trữ bắt đầu giảm tại Indonesia. Theo đó, người trồng cà phê ở Tây Nguyên bán cà phê nhân xô với giá 42.000 – 44.000 đồng (1,82-1,89 USD)/kg, tăng so 42.700 – 43.700 đồng trong tuần trước; thương nhân tại Việt Nam hào bán cà phê robusta loại 2 (5% hạt đen và vỡ) với giá trừ lùi 150 – 160 USD/tấn so với hợp đồng kỳ hạn tháng 9 ở London, so với mức trừ lùi là 140 – 160 USD/tấn cách đây một tuần.
Tại Indonesia, xuất cà phê robusta của Sumatra tăng 27,26% trong tháng 5 so với cùng tháng năm trước, lên 12.047,93 tấn. Giá cà phê robusta Sumatra so với hợp đồng kỳ hạn tháng 7 tại London không đổi so với tuần trước, ở mức trừ lùi 140 – 150 USD/tấn.
Giá cao su tại Nhật Bản giảm theo xu hướng giá nguyên liệu thô của Thái Lan và cổ phiếu Tokyo giảm, mặc dù doanh số bán ô tô của Trung Quốc mạnh và số liệu lạc quan hơn từ lĩnh vực sản xuất và dịch vụ của nước này đã hạn chế đà giảm.
Chứng khoán Nhật Bản giảm hơn 1,5% sau khi số liệu cho thấy sản lượng công nghiệp hàng tháng giảm mạnh nhất trong hai năm và JPY xuống mức thấp nhất 24 năm điều này dấy lên lo sợ suy thoái kinh tế.
Hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 12 trên sàn giao dịch Osaka đóng cửa phiên 30/6 giảm 2 JPY hay 0,8% xuống 257,4 JPY (1,89 USD)/kg, giảm mạnh nhất trong một ngày tính theo phần trăm kể từ ngày 14/6. Giá mủ cao su của Thái xuống mức thấp nhất kể từ ngày 12/1 tại 42,75 baht (1,21 USD)/kg trong ngày 29/6. Trên sàn giao dịch Thượng Hải cao su giao tháng 9 tăng 10 CNY lên 12.875 CNY (1.923,74 USD)/tấn.
Giá hàng hóa thế giới

 

 

ĐVT

Giá 31/5

Giá 30/6

30/6 so với 29/6

30/6 so với 29/6 (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

115,20

106,33

+0,57

+0,54%

Dầu Brent

USD/thùng

122,84

109,76

+0,73

+0,67%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

79.970,00

77.080,00

-3.030,00

-3,78%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

8,26

5,73

+0,30

+5,57%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

395,18

357,22

+3,59

+1,02%

Dầu đốt

US cent/gallon

409,09

389,82

-13,85

-3,43%

Dầu khí

USD/tấn

1.220,00

1.184,00

+24,00

+2,07%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

81.140,00

84.500,00

0,00

0,00%

Vàng New York

USD/ounce

1.837,70

1.806,10

-1,20

-0,07%

Vàng TOCOM

JPY/g

7.584,00

7.835,00

-88,00

-1,11%

Bạc New York

USD/ounce

21,56

20,18

-0,17

-0,82%

Bạc TOCOM

JPY/g

90,30

88,80

-2,80

-3,06%

Bạch kim

USD/ounce

966,87

903,49

+6,78

+0,76%

Palađi

USD/ounce

1.999,92

1.934,81

-5,41

-0,28%

Đồng New York

US cent/lb

429,95

368,65

-2,35

-0,63%

Đồng LME

USD/tấn

9.447,50

8.258,00

-143,00

-1,70%

Nhôm LME

USD/tấn

2.787,00

2.445,50

-25,50

-1,03%

Kẽm LME

USD/tấn

3.913,50

3.157,00

-203,00

-6,04%

Thiếc LME

USD/tấn

34.670,00

26.451,00

-323,00

-1,21%

Ngô

US cent/bushel

751,75

618,00

-1,75

-0,28%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

1.097,50

885,75

+1,75

+0,20%

Lúa mạch

US cent/bushel

660,00

502,00

-6,00

-1,18%

Gạo thô

USD/cwt

17,46

16,73

-0,01

-0,09%

Đậu tương

US cent/bushel

1.691,75

1.446,50

-11,50

-0,79%

Khô đậu tương

USD/tấn

417,00

402,90

-3,80

-0,93%

Dầu đậu tương

US cent/lb

77,95

63,96

-0,50

-0,78%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

1.070,70

878,50

-13,60

-1,52%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.496,00

2.340,00

-26,00

-1,10%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

231,25

230,10

+1,85

+0,81%

Đường thô

US cent/lb

19,40

18,50

-0,01

-0,05%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

177,35

173,05

+1,55

+0,90%

Bông

US cent/lb

122,52

97,76

-1,08

-1,09%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

653,50

637,30

+42,90

+7,22%

Cao su TOCOM

JPY/kg

165,90

163,90

+2,30

+1,42%

Ethanol CME

USD/gallon

2,16

2,16

0,00

0,00%

 

 

Nguồn: Vinanet/VITIC (Theo Reuters, Bloomberg)