Năng lượng: Giá dầu tăng tuần thứ 3
Giá dầu đã tăng 3 tuần liên tiếp khi thị trường cân nhắc mức độ tác động giữa mục tiêu cắt giảm sản lượng của OPEC+ và tồn trữ dầu của Mỹ giảm, trước mối lo ngại về triển vọng kinh tế toàn cầu.
Kết thúc phiên giao dịch cuối tuần (6/4), giá dầu Brent tăng 13 US cent tương đương 0,2% lên 85,12 USD/thùng; dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) tăng 9 US cent, tương đương 0,1%, lên 80,7 USD/thùng.
Tính chung cả tuần, cả hai loại dầu đều tăng hơn 6%, sau khi Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) và các đồng minh bao gồm Nga, (nhóm OPEC+) gây bất ngờ cho thị trường với cam kết cắt giảm sản lượng.
Tồn trữ dầu thô của Mỹ trong tuần trước giảm mạnh hơn dự kiến và có tuần giảm thứ 2 liên tiếp, cho thấy nhu cầu tăng. Tuy nhiên, mức tăng giá dầu bị hạn chế bởi số liệu thị trường lao động của Mỹ cho thấy tăng trưởng kinh tế chậm lại và tăng trưởng trong lĩnh vực dịch vụ của Mỹ chậm hơn so với dự kiến.
Ông Dennis Kissler, phó chủ tịch cấp cao phụ trách giao dịch của ngân hàng BOK Financial (Mỹ) cho biết các quỹ phòng hộ đã mua dầu thô cả tuần, chuyển từ trạng thái thận trọng theo dõi sang "chấp nhận rủi ro".
Các công ty năng lượng của Mỹ trong tuần qua cũng cắt giảm số lượng giàn khoan dầu trong tuần thứ hai liên tiếp. Dữ liệu của Baker Hughes cho thấy số lượng giàn khoan, một chỉ báo sớm về sản lượng trong tương lai, đã giảm 2 giàn xuống còn 590 giàn.
Tuy nhiên, một yếu tố đã hạn chế mức tăng của “vàng đen” là báo cáo thị trường lao động của Mỹ chỉ ra rằng tăng trưởng kinh tế đang chậm lại. Lĩnh vực dịch vụ của nước này cũng tăng chậm hơn dự kiến.
Ông Robert Yawger, người phụ trách bộ phận thị trường năng lượng thuộc ngân hàng đầu tư Mizuho Securities cho biết nỗi lo nhu cầu suy giảm do nguy cơ suy thoái kinh tế lớn hơn mức cắt giảm của OPEC+.
Ông Yawger cho biết thêm, những người mua quyền chọn bán để phòng ngừa rủi ro giảm giá đang tích cực giao dịch hơn những người mua quyền chọn mua vào, vốn đặt cược vào triển vọng giá tăng. Diễn biến này cho thấy các nhà giao dịch đang lo lắng giá dầu có thể giảm trong thời gian tới.
Ông Stephen Brennock của nhà môi giới dầu mỏ PVM cho biết: “Đà tăng giá của thị trường dầu mỏ có thể đã tạm dừng, nhưng tiềm năng tăng giá vẫn còn trong bối cảnh nguồn cung thắt chặt”.
Kim loại quý: Giá vàng tăng trong tuần
Mặc dù giảm trong phiên cuối tuần, song tính chung tuần qua giá vàng tuần qua tăng do số liệu kinh tế của Mỹ không mấy khả quan làm dấy lên lo ngại về sự giảm tốc tăng trưởng của nền kinh tế lớn nhất thế giới.
Phiên giao dịch cuối cùng của tuần qua (6/4), giá vàng giảm trước khi Mỹ công bố báo cáo việc làm – rất quan trọng đối với thị trường. Mặc dù giảm trong phiên này song tính chung
Kết thúc phiên này, giá vàng giao ngay giảm 0,6% xuống 2.009,07 USD/ounce; vàng kỳ hạn tháng 6/2023 giảm 0,5% xuống 2.026,4 USD/ounce.
Tính chung cả tuần, giá vàng tăng hơn 2% và vượt ngưỡng 2.000 USD/ounce, do giá dầu tăng sau khi OPEC+ cắt giảm thêm sản lượng, trong khi số liệu cho thấy lĩnh vực dịch vụ của Mỹ chậm lại và ít cơ hội việc làm hơn.
Giá vàng trong tuần qua được hỗ trợ bởi đồng USD giảm xuống mức thấp nhất 2 tháng, trong khi lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ kỳ hạn 10 năm chạm mức thấp nhất 7 tháng.
Giá đã vượt qua mức quan trọng 2.000 USD/ounce do giá dầu tăng sau cú sốc cắt giảm sản lượng của Tổ chức các Nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) và các nhà sản xuất lớn ngoài khối (nhóm OPEC+). Trong khi đó, báo cáo mới nhất cho thấy lĩnh vực dịch vụ của Mỹ tăng trưởng chậm lại và ít cơ hội việc làm hơn.
Ông Paul Wong, chiến lược gia thị trường tại công ty dịch vụ tài chính Sprott cho biết Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) đang đối mặt với quyết định nhiều khó khăn. Vì lãi suất cao hơn có thể gây ra suy thoái kinh tế, nhưng việc tạm dừng thắt chặt chính sách tiền tệ có nguy cơ gây ra lạm phát - cả hai kịch bản này đều tích cực đối với vàng.
Chủ tịch Fed chi nhánh St. Louis, ông James Bullard nhận định Fed nên kiên trì tăng lãi suất để giảm lạm phát trong khi thị trường lao động vẫn mạnh.
Trong khi đó, nhà phân tích thị trường cấp cao Craig Erlam của công ty môi giới đầu tư OANDA cho biết nhiều dữ liệu củng cố nhu cầu cắt giảm lãi suất có thể giữ vàng trên ngưỡng 2.000 USD/ounce, đẩy kim loại quý này vào vùng nhiều biến động khó lường..
Về những kim loại quý khác, giá bạc giao ngay trong phiên cuối tuần giảm 0,2% xuống 24,92 USD/ounce, bạch kim tăng 1% lên 1.007,21 USD/ounce, cả hai kim loại đều có tuần tăng thứ tư liên tiếp. Giá palladium tăng 2,3% lên 1.463,10 USD.
Kim loại công nghiệp: Thị trường xen lẫn tâm lý lạc quan và lo ngại
Giá đồng tăng trong phiên cuối tuần do thị trường lạc quan nhu cầu tại nước tiêu thụ kim loại hàng đầu thế giới – Trung Quốc – hồi phục. Tuy nhiên, mối lo ngại về khả năng suy thoái sau số liệu mới đây của Mỹ đã hạn chế đà tăng.
Giá đồng giao sau 3 tháng trên sàn London tăng 0,3% lên 8.809 USD/tấn. Giá đồng chạm mức thấp nhất hơn 2 tuần trong phiên ngày 5/4/2023.
Số liệu việc làm của Mỹ suy yếu và số liệu mới đây khác cho thấy nền kinh tế suy giảm.
Nitesh Shah, chiến lược gia hàng hóa của WisdomTree cho biết: “Sau dữ liệu của Mỹ, những lo lắng về suy thoái vẫn còn đó và kéo dài, do đó có thể kìm hãm các kim loại cơ bản”.
Giá đồng chạm mức thấp nhất trong hơn hai tuần vào thứ Tư, nhưng tính chung cả tuần tăng và kết thúc tuần ở trên đường trung bình động 100 ngày, một tín hiệu kỹ thuật tích cực.
“Các yếu tố cơ bản vẫn mạnh mẽ và chỉ số PMI mới nhất của Trung Quốc khá tích cực, với chỉ số tổng hợp cao hơn mốc mở rộng,” ông Shah nói.
Chỉ số quản lý mua hàng tổng hợp (PMI) của Caixin/S&P, bao gồm cả hoạt động sản xuất và dịch vụ, của Trung Quốc đã tăng lên 54,5 trong tháng 3, đánh dấu mức tăng nhanh nhất kể từ tháng 6.
Cuộc khảo sát mới nhất cung cấp một số thông tin lạc quan sau tuần trước, chỉ số PMI cho lĩnh vực sản xuất đã chững lại do các đơn đặt hàng xuất khẩu yếu.
Các dữ liệu khác cho thấy nhu cầu tại Trung Quốc được cải thiện đối với kim loại được sử dụng trong lĩnh vực năng lượng, xây dựng và điều hòa không khí.
Chênh lệch giá đồng Yangshan so với giá quốc tế, phản ánh nhu cầu đồng nhập khẩu vào Trung Quốc, tăng lên 32,50 USD/tấn vào thứ Ba, đây là lần tăng đầu tiên kể từ ngày 17 tháng 3.
Cũng hỗ trợ thị trường là tin tức rằng một dự án khai thác đồng chung của ENAMI do nhà nước điều hành của Ecuador và Codelco của Chile đã được yêu cầu tạm dừng hoạt động.
Về những kim loại khác, giá nhôm trên sàn LME phiên giao dịch cuối cùng của tuần tăng 0,4% lên 2.343 USD/tấn, niken tăng 0,2% lên 22.755 USD và thiếc tăng 0,3% lên 24.310 USD, trong khi kẽm giảm 0,2% xuống 2.783,50 USD sau khi chạm mức thấp nhất trong 5 tháng vào thứ Tư và chì giảm 0,6% xuống còn 2.098 đô la.
Giá quặng sắt trên sàn Đại Liên tăng nhẹ vào phiên cuối tuần, kết thúc chuỗi ba ngày giảm do dự trữ tại cảng của Trung Quốc giảm và sản lượng thép có khả năng tăng, song suy đoán về chính sách cắt giảm sản lượng thép thô của nhà nước tiếp tục gây áp lực.Dữ liệu từ công ty tư vấn Mysteel cho thấy tồn kho quặng sắt tại cảng tại các cảng lớn trên khắp Trung Quốc đã giảm 7,5% xuống 131,53 triệu tấn trong tuần tính đến ngày 6/4, đánh dấu tuần giảm thứ sáu liên tiếp.
Theo dữ liệu từ Hiệp hội Sắt thép Trung Quốc (CISA), sản lượng kim thép hàng ngày dự kiến sẽ tăng 1,54% lên 2,45 triệu tấn trong giai đoạn 21-31/3 so với 10 ngày trước đó.
Hợp đồng quặng sắt kỳ hạn tháng 9 trên Sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên kết thúc phiên cuối tuần tăng 0,13% lên 795,5 nhân dân tệ (115,74 USD)/tấn, sau khi giảm 4,4% trong ba phiên giao dịch trước đó của tuần này.
Thị trường Singapore đóng cửa nghỉ lễ phiên thứ Sáu (7/4). Trong phiên 6/4, giá quặng sắt kỳ
hạn tháng 5/2023 trên sàn Singapore giảm 0,47% xuống mức thấp nhất 2 tuần (117,3 USD/tấn). Tính chung cả tuần, giá giảm 6,4%.
Các nhà phân tích cho biết, giá thép kỳ hạn ghi nhận một số mức tăng, được thúc đẩy bởi hy vọng nhu cầu được nối lại với thời tiết trở nên thuận lợi cho hoạt động xây dựng cũng như hy vọng nhà hoạch định nhà nước hoàn thiện chính sách giảm sản lượng thép.
Giá thép cây trên Sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải phiên cuối tuần tăng 0,99% lên 3.989 nhân dân tệ/tấn, thép cuộn cán nóng tăng 1,12%, dây thép cuộn tăng 0,27% và thép không gỉ SHSScv1 tăng 1,76%.
Nông sản: Giá cao su giảm trong tuần
Giá các mặt hàng nông sản Mỹ đồng loạt giảm trên diện rộng trong phiên giao dịch cuối tuần do thất vọng về doanh số xuất khẩu của Mỹ và triển vọng thời tiết đối với cây trồng mùa xuân của Mỹ được cải thiện.
Kết thúc phiên cuối tuần, trên sàn Chicago, giá đậu tương kỳ hạn tháng 5/2023 giảm 18-1/2 US cent xuống 14,92-1/2 USD/bushel và chạm mức thấp nhất kể từ ngày 31/3/2023; ngô kỳ hạn tháng 5/2023 giảm 9-1/4 US cent xuống 6,43-1/2 USD/bushel và chạm mức thấp nhất kể từ ngày 27/3/2023; lúa mì giao cùng kỳ hạn giảm 6-1/2 US cent xuống 6,75-1/2 USD/bushel, sau khi chạm mức thấp nhất kể từ ngày 24/3/2023.
Bộ Nông nghiệp Mỹ cho biết doanh số xuất khẩu đậu tương của Mỹ niên vụ 2022/2023 là 155.300 tấn trong tuần kết thúc vào ngày 30/3, giảm 42% so với mức trung bình 4 tuần trước đó. Con số này thấp hơn kỳ vọng của các nhà phân tích là 200.000 đến 600.000 tấn. Đã có 48.300 tấn ròng hhhbị hủy.
Đối với ngô, doanh số xuất khẩu hàng tuần của Mỹ là 1,2 triệu tấn trong năm 2022/2023, nằm trong ước tính của các nhà phân tích mặc dù một số người hy vọng con số này sẽ lớn hơn sau khi USDA gần đây đưa ra một loạt thông báo bán hàng hàng ngày cho Trung Quốc.
Ted Seifried, giám đốc chiến lược thị trường của Zaner Group, cho biết: “Thị trường nói chung đã thực sự hy vọng vào một con số hấp dẫn. "Chúng tôi đã không thấy điều đó."
Giá đường thô trên sàn ICE tăng lên mức cao nhất 6,5 năm, do sản lượng tại Ấn Độ giảm dẫn đến nguồn cung thắt chặt. Theo đó, Giá đường thô kỳ hạn tháng 5/2023 trên sàn ICE tăng 0,66 US cent tương đương 2,9% lên 23,61 US cent/lb, sau khi đạt 23,68 US cent/lb – cao nhất kể từ tháng 10/2016. Giá đường trắng phiên này cũng tăng, với hợp đồng kỳ hạn tháng 5/2023 trên sàn London tăng 9,3 USD tương đương 1,4% lên 673,2 USD/tấn, sau khi đạt mức cao nhất 11 năm (676,5 USD/tấn).
Các đại lý cho biết các yếu tố hỗ trợ bao gồm việc nhiều nhà máy đường ở Ấn Độ đóng cửa sớm hơn bình thường, có thể khiến sản lượng trong niên vụ này giảm xuống dưới 33 triệu tấn.
Một cuộc thăm dò của Reuters đối với các thương nhân và nhà phân tích được đưa ra vào tháng 2 đã đưa ra dự báo trung bình về sản lượng của Ấn Độ trong niên vụ 2022/23 là 34,7 triệu tấn. Họ cũng lưu ý lo ngại rằng thời tiết khô, nóng ở Thái Lan có thể ảnh hưởng đến triển vọng sản lượng năm 2023/24.
Đối với cà phê, giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 5/2023 trong phiên cuối tuần tăng 3,45 US cent tương đương 1,9% lên 1,836 USD/lb, sau khi đạt mức cao nhất 2 tuần lúc đầu phiên giao dịch; cà phê robusta kỳ hạn tháng 5/2023 giảm 15 USD tương đương 0,6% xuống 2.299 USD/tấn, giảm từ mức cao nhất 7 tháng (2.320 USD/tấn) trong phiên trước đó.
Các đại lý cho biết nguồn cung khan hiếm do Việt Nam, nhà sản xuất cà phê robusta hàng đầu, trong khi nhu cầu được thúc đẩy bởi việc sử dụng ngày càng nhiều loại cà phê rẻ hơn trong hỗn hợp cà phê arabica, đặc biệt là ở các nước đang phát triển.
Giá cao su tại Nhật Bản giảm xuống mức thấp nhất hai tuần vào thứ Sáu, theo xu hướng giảm tại thị trường Thượng Hải do lo ngại về nhu cầu chậm lại ở Trung Quốc và lo ngại về suy thoái kinh tế toàn cầu. Tính chung cả tuần giá cũng giảm.
Cụ thể, cao su kỳ hạn tháng 9 trên Sàn giao dịch Osaka (OSE) kết thúc phiên 7/4 giảm 1,9 yên, tương đương 0,9%, xuống 204,6 yên (1,6 USD)/kg, sau khi chạm mức thấp nhất kể từ ngày 24 tháng 3 là 203,8 yên trước đó trong phiên. Tính chung cả tuần giá giảm 2,6%.
Hợp đồng cao su SNRv1 giao tháng 9 trên sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải (SHFE) giảm 150 CNY xuống còn 11.625 NDT (1.691 USD)/tấn. Trong phiên liền trước, giá đã giảm xuống mức thấp nhất kể từ ngày 16 tháng 3, là 11.560 nhân dân tệ. Sàn Singapore đóng cửa phiên thứ Sáu (7/4). Trong hpieen 6/4, giá cao su kỳ hạn tháng 5 trên Sở giao dịch Singapore giảm 0,7% xuống 134,8 US cent/kg.
Hoạt động sản xuất của Trung Quốc mở rộng với tốc độ chậm lại trong tháng 3, dữ liệu chính thức cho thấy vào tuần trước, cho thấy hy vọng về sự phục hồi kinh tế mạnh mẽ sau COVID đang tan thành mây khói trong bối cảnh nhu cầu toàn cầu yếu hơn và thị trường bất động sản tiếp tục suy thoái.
Tồn kho cao su tại các kho do Sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải giám sát đã giảm 0,7% so với thứ Sáu tuần trước.
Giá hàng hóa thế giới:

 

ĐVT

31/3

7/4

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

79,80

80,70

+0,09

+0,11%

Dầu Brent

USD/thùng

84,15

85,12

+0,13

+0,15%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

67.640,00

67.810,00

+190,00

+0,28%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,08

2,01

-0,14

-6,68%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

276,53

281,33

-0,68

-0,24%

Dầu đốt

US cent/gallon

269,17

266,05

-7,05

-2,58%

Dầu khí

USD/tấn

794,75

780,25

-8,75

-1,11%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

75.000,00

75.000,00

0,00

0,00%

Vàng New York

USD/ounce

1.976,50

2.026,40

-9,20

-0,45%

Vàng TOCOM

JPY/g

8.369,00

8.487,00

-11,00

-0,13%

Bạc New York

USD/ounce

23,97

25,09

+0,06

+0,22%

Bạc TOCOM

JPY/g

100,00

104,00

+0,30

+0,29%

Bạch kim

USD/ounce

990,11

1.011,80

-0,10

-0,01%

Palađi

USD/ounce

1.458,48

1.470,06

+0,28

+0,02%

Đồng New York

US cent/lb

407,45

401,55

+2,90

+0,73%

Đồng LME

USD/tấn

8.993,00

8.800,00

+18,00

+0,20%

Nhôm LME

USD/tấn

2.413,00

2.333,50

0,00

0,00%

Kẽm LME

USD/tấn

2.922,50

2.779,00

-10,50

-0,38%

Thiếc LME

USD/tấn

25.835,00

24.308,00

+61,00

+0,25%

Ngô

US cent/bushel

666,00

643,50

-9,25

-1,42%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

698,00

675,50

-6,50

-0,95%

Lúa mạch

US cent/bushel

366,75

340,25

+2,25

+0,67%

Gạo thô

USD/cwt

17,51

16,64

-0,19

-1,16%

Đậu tương

US cent/bushel

1.515,00

1.492,50

-18,50

-1,22%

Khô đậu tương

USD/tấn

465,50

454,30

+3,70

+0,82%

Dầu đậu tương

US cent/lb

56,64

54,73

-0,71

-1,28%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

758,80

748,00

+3,10

+0,42%

Cacao Mỹ

USD/tấn

666,00

2.870,00

-7,00

-0,24%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

170,50

183,60

+3,45

+1,92%

Đường thô

US cent/lb

22,25

23,61

+0,66

+2,88%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

269,50

275,50

-6,70

-2,37%

Bông

US cent/lb

83,18

83,20

+2,13

+2,63%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

371,40

384,90

+0,90

+0,23%

Cao su TOCOM

JPY/kg

137,00

133,40

-1,40

-1,04%

Ethanol CME

USD/gallon

2,16

2,16

0,00

0,00%

 

Nguồn: Vinanet/VITIC (Theo Reuters, Bloomberg)