Năng lượng: Giá dầu giảm 3,5% trong tuần này
Giá dầu giảm trong phiên thứ Sáu và tính chung cả tuần cũng giảm trong bối cảnh các nhà giao dịch lo ngại các đợt tăng lãi suất của nhiều nền kinh tế có thể làm giảm nhu cầu, bất chấp những dấu hiệu nguồn cung thắt chặt lại, trong đó có dự trữ dầu thô của Mỹ giảm.
Kết thúc phiên này, giá dầu thô Brent giảm 29 US cent, tương đương 0,4%, xuống 73,85 USD/thùng, trong khi dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giảm 35 US cent, tương đương 0,5%, xuống 69,16 USD/thùng. Đây là phiên thứ 2 liên tiếp cả hai loại dầu đều giảm. Tính chung cả tuần, giá tăng 3,5%.
Vào thứ Năm, dầu Brent đã giảm khoảng 3 USD/hùng sau khi Ngân hàng Trung ương Anh (BoE) tăng lãi suất thêm nửa điểm phần trăm, lớn hơn dự kiến. Các ngân hàng trung ương Na Uy và Thụy Sĩ cũng tăng lãi suất.
Có khả năng Mỹ cũng sẽ có thêm nhiều đợt tăng lãi suất. Chủ tịch Ngân hàng Dự trữ Liên bang San Francisco Mary Daly cho biết thêm hai lần tăng lãi suất nữa trong năm nay là một dự đoán "rất hợp lý".
Dennis Kissler, Phó Chủ tịch phụ trách giao dịch của BOK Financial, cho biết dường giao dịch “phòng ngừa rủi ro” ngày càng tăng đối với dầu thô, do động thái tăng lãi suất ở châu Âu và các biện pháp kích thích từ Trung Quốc không được như kỳ vọng của thị trường.
Ông Kissler cho biết thêm việc BoE tăng lãi suất đã kích hoạt tâm lý phòng ngừa rủi ro của các nhà sản xuất năng lượng. Lãi suất cao hơn làm tăng chi phí vay đối với các doanh nghiệp và người tiêu dùng, điều này có thể làm chậm tăng trưởng kinh tế và giảm nhu cầu dầu.
Tâm lý lo ngại rủi ro của các nhà đầu tư cũng làm tăng giá trị của đồng USD, điều này gây áp lực lên giá dầu vì khiến hàng hóa này trở nên đắt đỏ hơn đối với những người nắm giữ tiền tệ khác.
Dữ liệu khảo sát cho thấy hoạt động kinh doanh của Mỹ cũng giảm xuống mức thấp nhất trong ba tháng vào tháng 6/2023 do tăng trưởng dịch vụ lần đầu tiên giảm trong năm nay và đà sụt giảm trong lĩnh vực sản xuất ngày càng sâu.
Các chỉ số chính của Phố Wall giảm, trong khi giá vàng đang trên đà giảm hàng tuần lớn nhất kể từ đầu tháng Hai.
Sự phục hồi kinh tế đầy hứa hẹn của Trung Quốc đã chững lại sau vài tháng liên tiếp dữ liệu thị trường bất động sản, sản xuất và tiêu dùng thấp hơn dự kiến. Suy thoái kinh tế và những lo ngại về nhu cầu che mờ hơn các dấu hiệu thắt chặt từ phía cung.
Công ty dịch vụ năng lượng Baker Hughes Co cho biết các công ty năng lượng của Mỹ trong tuần này đã cắt giảm số lượng giàn khoan trong tuần thứ tám liên tiếp. Số lượng giàn khoan dầu của Mỹ, một chỉ báo về sản lượng trong tương lai, đã giảm 6 giàn xuống 546 giàn khoan trong tuần này, mức thấp nhất kể từ tháng 4/2022.
Báo cáo về lượng dầu dự trữ của Mỹ trong tuần này bất ngờ giảm 3,8 triệu thùng. Một yếu tố nữa làm nguồn cung thắt chặt đó là việc Saudi Arabia có kế hoạch cắt giảm sản lượng 1 triệu thùng mỗi ngày vào tháng 7/2023 được công bố cùng với thỏa thuận OPEC+ nhằm hạn chế nguồn cung vào năm 2024.
Trước những đồn đoán về tăng trưởng nhu cầu dầu mỏ yếu ở Trung Quốc, quốc gia tiêu thụ dầu lớn thứ hai thế giới, và mức độ cắt giảm lãi suất cho vay của Trung Quốc không được như kỳ vọng của thị trường, cùng với những nghi ngại về đà phục hồi của kinh tế Trung Quốc đà khiến giá dầu thế giới ghi nhận đà giảm trong cả hai phiên 19-20/6.
Một số ngân hàng lớn đã cắt giảm dự báo tăng trưởng năm 2023 của kinh tế Trung Quốc sau khi số liệu trong tháng Năm được công bố vào tuần trước cho thấy đà phục hồi của nền kinh tế lớn thứ hai thế giới sau đại dịch COVID-19 đang chững lại.
Kim loại quý: Giá vàng có tuần giảm mạnh nhất hơn tháng
Giá vàng tăng trong phiên cuối tuần, song tính chung cả tuần giảm mạnh nhất hơn 4 tháng do đồng USD tăng mạnh và bình luận của các quan chức Cục Dự trữ Liên bang Mỹ ủng hộ thắt chặt tiền tệ.
Kết thúc phiên thứ Sáu, giá vàng giao ngay tăng 0,3% lên 1.919,99 USD/ounce, sau khi có lúc tăng 1,2% do lợi suất trái phiếu của Mỹ giảm; vàng kỳ hạn tháng 8/2023 tăng 0,3% lên 1.929,6 USD/ounce.
Tuy nhiên, tính chung cả tuần qua, giá vàng giảm gần 2% và hiện đã mất hơn 150 USD mỗi ounce kể từ khi vượt mốc quan trọng 2.000 USD/ounce vào đầu tháng Năm.
Chỉ số đồng USD tăng 0,5% lên mức cao nhất 1 tuần so với các đồng tiền chủ chốt khác, khiến vàng trở nên kém hấp dẫn hơn khi mua bằng tiền tệ khác.
Đồng đô la mạnh lên sau khi Chủ tịch Fed Jerome Powell, trong phiên điều trần trước quốc hội trong tuần này, báo hiệu nhiều đợt tăng lãi suất sắp tới nhưng tuyên bố ngân hàng trung ương sẽ tiến hành một cách thận trọng.
"Ông Powell vẫn hướng tới việc thắt chặt tiền tệ. Ông ấy ủng hộ việc tăng lãi suất nhiều hơn và không thấy sớm có bất kỳ đợt cắt giảm lãi suất nào. Điều đó khiến kim loại quý giảm giá khá nhiều", Phillip Streible, chiến lược gia trưởng thị trường của Blue Line Futures ở Chicago, cho biết.
Trong khi đó, Chủ tịch Fed chi nhánh San Francisco, Mary Daly, cho biết rằng hai đợt nâng lãi suất nữa trong năm nay là một dự báo “rất hợp lý”. Vàng rất nhạy cảm với việc nâng lãi suất của Fed, vì động thái này làm tăng chi phí cơ hội cho việc nắm giữ vàng.
Chuyên gia phân tích Suki Cooper của Standard Chartered cho biết: “Nhà đầu tư đang thiếu niềm tin vào vàng”.
"Mức độ rủi ro giảm mạnh kể từ cuộc họp (của Fed) gần đây không nhất thiết cho thấy hoạt động bù đắp ngắn hạn sắp xảy ra, nhưng nhấn mạnh sự thay đổi trong tâm lý khi chúng ta bước vào giai đoạn nhu cầu chậm hơn theo mùa."
Về những kim loại quý khác, giá bạc giao ngay kết thúc phiên cuối tuần tăng 0,5% lên 22,34 USD/ounce, nhưng tính chung cả tuần giảm mạnh nhất kể từ tháng 10 năm 2022. Bạch kim giảm 0,6% xuống 917,34 USD, tính chung cả tuần giảm nhiều nhất kể từ tháng 8 năm 2022. Giá palladium ổn định ở 1.283,18 USD sau khi chạm mức thấp nhất kể từ tháng 5 năm 2019 vào thứ Năm. Palladium có thể kéo dài mức giảm giá gần 30% trong năm nay do nhu cầu bị ảnh hưởng bởi sự phát triển và sử dụng nhanh chóng của xe điện.
Kim loại công nghiệp: Giá đồng giảm trong tuần
Giá đồng tuần này giảm, kết thúc chuỗi 3 tuần tăng liên tiếp, do lo ngại về tăng trưởng kinh tế toàn cầu sau khi lãi suất tăng mặc dù tồn trữ đồng trên sàn London giảm.
Làm cho hàng hóa định giá bằng đô la trở nên kém hấp dẫn hơn đối với những người nắm giữ các loại tiền tệ khác, đồng đô la tăng lên do nguy cơ lãi suất cao hơn gây ra suy thoái kinh tế đã thúc đẩy một số nhà đầu tư tìm kiếm các tài sản trú ẩn an toàn bao gồm cả đồng tiền của Mỹ.
Kết thúc phiên cuối tuần, giá đồng trên sàn London giảm 2,2% xuống 8.389,5 USD/tấn; tính chung cả tuần, giá giảm 2%. Tồn trữ đồng tại London giảm xuống mức thấp nhất 1 tháng, là 79.300 tấn.
Trong số các kim loại cơ bản khác, giá nhôm trên sàn London phiên này giảm 1,1% xuống 2.176 USD/tấn; kẽm giảm 3,8% xuống còn 2.364 USD, chì giảm 1,7% xuống còn 2.127 USD, thiếc giảm 1,6% ở mức 26.645 USD và niken tăng 0,5% lên 21.285 USD/tấn.
Tính chung cả tuần, giá nhôm giảm mạnh nhất kể từ ngày 10/2/202, trong khi nickel giảm mạnh nhất kể từ ngày 12/5/2023.
Không có giá sắt thép trong phiên này do thị trường Trung Quốc tiếp tục đóng cửa nghỉ lễ Thuyền Rồng.
Nông sản: Giá cà phê và cao su giảm mạnh trong tuần
Phiên cuối tuần, giá ngô và đậu tương trên Mỹ giảm xuống mức thấp nhất 1 tuần do dự báo mưa tại khu vực trung tây Mỹ thúc đẩy năng suất cây trồng. Giá lúa mì cũng giảm khi các nhà giao dịch chốt lời sau đợt phục hồi đã đẩy giá lên cao hơn trong 5 tuần liên tiếp.
Kết thúc phiên này, trên sàn Chicago, giá ngô kỳ hạn tháng 12/2023 giảm 32-3/4 US cent xuống 5,88 USD/bushel; đậu tương kỳ hạn tháng 11/2023 giảm 29-1/2 US cent xuống 13,1 USD/bushel; lúa mì đỏ mềm, vụ đông kỳ hạn tháng 9/2023 giảm 6-1/2 US cent xuống 7,46-1/2 USD/bushel. Mặc dù giảm trong phiên này, song tính chung trong 5 tuần qua, giá lúa mì tăng 21%.
Bộ Nông nghiệp Mỹ hôm thứ Sáu cho biết tổng doanh số xuất khẩu ngô hàng tuần chỉ đạt 83.100 tấn, gần mức thấp nhất trong ước tính của thị trường (dao động từ 0 đến 800.000 tấn). Doanh số xuất khẩu lúa mì được báo cáo là 123.900 tấn và doanh số xuất khẩu đậu tương là 626.300 tấn. Điều đó so với kỳ vọng là từ 100.000 đến 400.000 tấn đối với lúa mì và 100.000 đến 900.000 tấn đối với đậu tương.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 7/2023 phiên cuối tuần giảm 0,75 US cent, tương đương 3%, xuống 24,18 US cent/lb, sau khi chạm mức thấp nhất 2 tháng (24,13 US cent/lb) lúc đầu phiên giao dịch; tính chung cả tuần, giá giảm 8,5%. Giá đường trắng kỳ hạn tháng 8/2023 trên sàn London giảm 16,6 USD tương đương 2,5% xuống 657,3 USD/tấn; tính chung cả tuần, giá giảm 6,4%.
Các nhà đầu cơ đang thanh lý một số vị thế mua lớn của họ khi hợp đồng tháng Bảy sắp hết hạn vào cuối tháng. Dự báo sẽ không có mưa tại vành đai mía đường lớn nhất ở nước sản xuất hàng đầu thế giới – Brazil - cho đến ít nhất là ngày 5 tháng 7, nghĩa là vụ thu hoạch sẽ tiến triển tốt.
Giá cà phê arabica trên sàn ICE phiên thứ Sáu giảm xuống mức thấp nhất 6 tháng và tính chung cả tuần giảm 8,8%, do giảm bớt lo ngại nguồn cung. Theo đó, arabica kỳ hạn tháng 9/2023 trên sàn ICE giảm 5,4 US cent tương đương 3,2% xuống 1,6485 USD/lb – thấp nhất kể từ tháng 1/2023 (1,6405 USD/lb). Trong khi đó, cà phê robusta kỳ hạn tháng 9/2023 trên sàn London giảm 73 USD tương đương 2,7% xuống 2.676 USD/tấn.
Theo USDA, sản lượng cà phê toàn cầu niên vụ 2023/24 (từ tháng 10/2023-9/2024) dự kiến sẽ tăng 4,3 triệu bao (60 kg) so với niên vụ 2022/23 lên 174,3 triệu bao, do sản lượng tại Brazil và Việt Nam tăng, bù đắp sản lượng cà phê tại Indonesia giảm.
Vụ thu hoạch cà phê niên vụ 2023/24 của Brazil đạt 39% tổng diện tích tính đến ngày 20/6, thấp hơn một chút so với bình thường. Các nhà rang xay ở Brazil đang xem xét chuyển hướng pha trộn của họ sang arabica do giá robusta tăng đột biến.
Giá cao su trên thị trường Nhật Bản tuần này giảm mạnh nhất kể từ 7/4/2023 do nhu cầu và hoạt động sản xuất nội địa của Trung Quốc giảm khiến các thương nhân bi quan về nền kinh tế nước này.
Kết thúc phiên thứ Sáu, cao su kỳ hạn tháng 11/2023 trên sàn Osaka giảm 0,5 JPY tương đương 0,2% xuống 206 JPY (1,44 USD)/kg. Đây là phiên giảm thứ 4 liên tiếp và có chuỗi giảm dài nhất kể từ tháng 3/2023. Tính chung cả tuần, giá giảm 2,5%. Giá cao su kỳ hạn tháng 7/2023 trên sàn Singapore giảm 0,1% xuống 132,5 US cent/kg. Thị trường Thượng Hải đóng cửa nghỉ lễ.
Hoạt động sản xuất của Nhật Bản trong tháng 6/2023 giảm và tăng trưởng trong lĩnh vực dịch vụ chậm lại – lần đầu tiên – trong 7 tháng.
Giá hàng hóa thế giới:

 

ĐVT

Giá 16/6

Giá 23/6

23/6 so với 22/6

23/6 so với 22/6 (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

71,78

69,16

-0,35

-0,50%

Dầu Brent

USD/thùng

76,61

73,85

-0,29

-0,39%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

64.900,00

66.300,00

-510,00

-0,76%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

2,63

2,73

+0,12

+4,64%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

268,05

251,72

-3,29

-1,29%

Dầu đốt

US cent/gallon

255,14

240,71

-5,84

-2,37%

Dầu khí

USD/tấn

736,00

701,25

-10,75

-1,51%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

75.100,00

78.000,00

0,00

0,00%

Vàng New York

USD/ounce

1.971,20

1.929,60

+5,90

+0,31%

Vàng TOCOM

JPY/g

8.905,00

8.853,00

+39,00

+0,44%

Bạc New York

USD/ounce

24,34

22,55

-0,12

-0,53%

Bạc TOCOM

JPY/g

108,10

103,00

+0,70

+0,68%

Bạch kim

USD/ounce

986,84

921,70

-3,58

-0,39%

Palađi

USD/ounce

1.416,62

1.288,28

+1,20

+0,09%

Đồng New York

US cent/lb

389,85

381,55

-8,50

-2,18%

Đồng LME

USD/tấn

8.566,50

8.390,50

-183,50

-2,14%

Nhôm LME

USD/tấn

2.271,00

2.174,50

-26,50

-1,20%

Kẽm LME

USD/tấn

2.478,00

2.364,50

-91,50

-3,73%

Thiếc LME

USD/tấn

26.951,00

26.476,00

-603,00

-2,23%

Ngô

US cent/bushel

597,50

588,00

-32,75

-5,28%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

701,50

746,50

-6,25

-0,83%

Lúa mạch

US cent/bushel

404,50

411,50

-8,25

-1,97%

Gạo thô

USD/cwt

15,44

15,72

+0,02

+0,10%

Đậu tương

US cent/bushel

1.342,25

1.310,00

-29,50

-2,20%

Khô đậu tương

USD/tấn

403,30

398,30

-17,70

-4,25%

Dầu đậu tương

US cent/lb

57,87

54,96

+1,20

+2,23%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

710,40

705,10

-10,00

-1,40%

Cacao Mỹ

USD/tấn

3.236,00

3.203,00

-7,00

-0,22%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

180,75

164,85

-5,40

-3,17%

Đường thô

US cent/lb

26,09

24,29

-0,68

-2,72%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

265,65

258,05

-1,75

-0,67%

Bông

US cent/lb

80,10

78,67

-1,48

-1,85%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

--

--

--

--

Cao su TOCOM

JPY/kg

133,20

130,50

-0,60

-0,46%

Ethanol CME

USD/gallon

2,16

2,16

0,00

0,00%

 

 

Nguồn: Vinanet/VITIC (Theo Reuters, Bloomberg)