Năng lượng: Giá dầu tăng tuần thứ 5 liên tiếp
Giá dầu tăng vào thứ Sáu (28/7) và ghi nhận tuần tăng thứ năm liên tiếp do các nhà đầu tư lạc quan rằng nhu cầu lành mạnh và việc cắt giảm nguồn cung sẽ giữ giá ổn định.
Chốt phiên 28/7, dầu Brent tăng 75 US cent lên 84,99 USD/thùng, trong khi dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) tăng 49 US cent lên 80,58 USD/thùng.
Cả hai loại dầu này đã giảm khoảng 1 USD trước đó trong phiên, do các nhà đầu tư chốt lời sau khi dầu WTI tăng trên 80 USD/thùng.
Nhu cầu đối với các tài sản rủi ro trên thị trường tài chính rộng lớn được thúc đẩy bởi kỳ vọng ngày càng tăng rằng các ngân hàng trung ương như Cục Dự trữ Liên bang Mỹ và Ngân hàng Trung ương Châu Âu đang sắp kết thúc chu kỳ thắt chặt chính sách, thúc đẩy triển vọng tăng trưởng toàn cầu và nhu cầu năng lượng.
Góp phần hỗ trợ giá dầu là động thái cắt giảm nguồn cung từ Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ và các đồng minh (OPEC+) đã thông báo vào đầu tháng này.
Tính chung cả tuần, giá cả hai loại dầu chủ chốt đều tăng gần 5% trong tuần, ghi nhận 5 tuần đi lên liên tiếp và tăng hơn 13% kể từ đầu tháng 7/2023.
Kỳ vọng nhu cầu tăng đã được thúc đẩy vào thứ Năm sau khi tổng sản phẩm quốc nội quý hai của Mỹ tăng trưởng với mức dự đoán là 2,4%, ủng hộ quan điểm của Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Jerome Powell rằng nền kinh tế có thể đạt được cái gọi là "hạ cánh mềm".
Tamas Varga, nhà phân tích của PVM cho biết, các nhà đầu tư đang nóng lòng với ý tưởng sắp đạt đỉnh lãi suất, trong khi ngày càng có nhiều khả năng Mỹ sẽ tránh được suy thoái.
Dữ liệu mới công bố vào ngày 28/7 cho thấy một số nền kinh tế hàng đầu Khu vực đồng tiền chung châu Âu (Eurozone) đã thể hiện khả năng phục hồi ngoài mong đợi trong quý II/2023, ngay cả khi một loạt chỉ số cho thấy sự suy yếu trong thời gian tới, do hoạt động sản xuất và dịch vụ chậm lại.
Trong khi đó, các nhà hoạch định chính sách ở Trung Quốc đã cam kết đẩy mạnh các biện pháp kích thích để thúc đẩy quá trình phục hồi kinh tế sau đại dịch, sau khi nền kinh tế lớn thứ hai thế giới tăng trưởng với tốc độ yếu trong quý II.
Trong một cuộc phỏng vấn vào thứ Sáu, Giám đốc Darren Woods của công ty dầu khí Exxon Mobil cho biết ông dự kiến nhu cầu dầu sẽ đạt kỷ lục trong năm nay và năm tới.
Về phía nguồn cung, số giàn khoan dầu của Mỹ đã giảm 1 xuống 529 trong tuần vừa qua, mức thấp nhất kể từ tháng 3 năm 2022, công ty dịch vụ năng lượng Baker Hughes (BKR.O) cho biết hôm thứ Sáu. Dữ liệu là một dấu hiệu của nguồn cung trong tương lai.
Các nhà phân tích của ngân hàng Commerzbank cho biết, bằng chứng cho thấy sự khan hiếm đang gia tăng do dự trữ dầu thô tại Mỹ giảm và động thái cắt giảm tự nguyện 1 triệu thùng/ngày của Saudi Arabia, đồng thời nhấn mạnh sản lượng dầu của OPEC trong tháng này có thể giảm xuống mức thấp nhất kể từ mùa Thu năm 2021
Năm nhà phân tích cho biết Saudi Arabia dự kiến sẽ gia hạn cắt giảm sản lượng dầu tự nguyện thêm một tháng nữa, bao gồm cả tháng 9, nhằm hỗ trợ thêm cho thị trường dầu mỏ.
Kim loại quý: Giá vàng giảm nhẹ trong tuần
Giá vàng tăng vào thứ Sáu, sau khi giảm mạnh một ngày trước đó, nhờ đồng USD giảm nhẹ khi các dấu hiệu lạm phát của Mỹ hạ nhiệt làm gia tăng đặt cược rằng Cục Dự trữ Liên bang có thể sẽ kết thúc chu kỳ thắt chặt tiền tệ.
Kết thúc phiên thứ Sáu, giá vàng giao ngay tăng 0,75% lên 1.959,53 USD/ounce; vàng kỳ hạn tháng 8 tăng 0,8% lên 1.960,4 USD/ounce.
Tính chung cả tuần, giá vàng giảm nhẹ.
Cũng trong phiên thứ Sáu, giá bạc giao ngay tăng 0,83% lên 24,33 USD/ounce, trong khi bạch kim giảm 0,23% xuống 933,81 USD và palladium gần như không đổi ở mức 1.241,41 USD.
Lạm phát của Mỹ được đo bằng chỉ số giá tiêu dùng cá nhân (PCE) đã tăng 0,2% trong tháng trước. Lãi suất đang tăng khiến việc giữ vàng ít hấp dẫn cho các nhà đầu tư vì vàng không mang lại lãi.
Vàng giảm gần 1,4% vào thứ Năm, ghi nhận ngày tồi tệ nhất trong gần một tháng sau khi dữ liệu cho thấy nền kinh tế Mỹ tăng trưởng nhanh hơn dự kiến trong quý hai và số đơn xin trợ cấp thất nghiệp hàng tuần giảm, thúc đẩy đồng đô la mạnh lên.
Tuy nhiên, USD giảm 0,16% so với các đối thủ khiến vàng rẻ hơn cho người giữ các đồng tiền khác.
Cả ngân hàng trung ương Mỹ và Ngân hàng Trung ương châu Âu đều tăng lãi suất trong tuần qua và để ngỏ khả năng thắt chặt hơn nữa.
Kim loại công nghiệp: Giá đồng loạt tăng trong tuần
Phiên thứ Sáu, giá đồng phục hồi sau 2 ngày giảm bởi số liệu lạm phát của Mỹ cho thấy lạm phát đang hạ nhiệt và các nhà đầu tư hủy bỏ mọt số vị thế giảm giá trước kỳ nghỉ cuối tuần.
Kết thúc phiên này, giá đồng giao sau 3 tháng trên sàn giao dịch kim loại London tăng 1,1% lên 8.663 USD/tấn, tính chung cả tuần tăng 2,5%.
Giá kẽm phiên này cũng tăng 2% lên 2.504 USD/tấn, chì ít thay đổi ở mức 2.158,50 USD, niken tăng 2,7% lên 22.280 USD và thiếc tăng 0,2% lên 28.740 USD. Giá nhôm tăng 0,9% lên 2.225 USD/tấn. Tính chung cả tuần, các kim loại này đều tăng giá.
Số liệu ngày 28/7 cho thấy lạm phát tháng 6 của Mỹ ghi nhận mức tăng thấp nhất trong hơn 2 năm, làm tăng hy vọng Cục Dự trữ Liên bang tiến gần tới kết thúc chu kỳ tăng lãi suất.
Chỉ số USD yếu sau số liệu này khiến các kim loại định giá bằng USD rẻ hơn cho người mua bằng các đồng tiền khác.
Các cam kết từ chính quyền Trung Quốc nhằm thúc đẩy lĩnh vực bất động sản đang gặp khó khăn cũng thúc đẩy tâm lý lạc quan. Tuy nhiên, các nhà phân tích cho biết chính phủ Trung Quốc có thể chỉ cung cấp sự giúp đỡ hạn chế, nhằm mục đích ổn định lĩnh vực bất động sản và không kích thích quá mức.
Chính phủ muốn giảm đòn bẩy và làm trong sạch nền kinh tế, vì vậy tôi không hy vọng rằng lĩnh vực bất động sản sẽ nhận đủ hỗ trợ để kim loại tăng giá trong những tuần tới.
Nhà sản xuất nhôm của Nga Rusal cho biết họ và chính phủ Nigeria đang thảo luận về khả năng khởi động lại nhà máy luyện Alscon ở Nigeria.
Giá quặng sắt tiếp tục giảm bởi những lo ngại về việc hạn chế sản lượng và thiếu thông tin cập nhật về kích thích từ Trung Quốc.
Hợp đồng quặng sắt kỳ hạn tháng 9 trên sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên, Trung Quốc đóng cửa giảm 2,68% xuống 834,5 CNY (116,6 USD)/tấn. Tại Singapore, quặng sắt kỳ hạn tháng 9 giảm 2,34% xuống 107,2 USD/tấn. Tại Thượng Hải hợp đồng thép cây giảm 0,3% và thép không gỉ giảm 1,1% nhưng thép cuộn cán nóng tăng 0,8%.
Công suất sử dụng lò cao của 247 nhà máy thép của Trung Quốc được công ty tư vấn Mysteel khảo sát đã giảm 3 tuần liên tiếp, giảm 1,33 điểm phần trăm trong tuần qua xuống 89,82% trong tuần từ 21-27/7, do nhiều nhà sản xuất thép trên khắp nước này đã tiếp tục cắt giảm sản lượng của họ theo yêu cầu của chính quyền địa phương. Một số nhà máy thép của Trung Quốc đã được chỉ đạo hạn chế sản lượng của năm nay ở cùng mức như năm 2022.
Nông sản: Giá đồng loạt giảm
Trong phiên cuối tuần, giá ngũ cốc và đậu tương giảm xuống mức thấp nhất trong hơn một tuần do hy vọng thời tiết nông vụ của Mỹ sẽ cải thiện và Nga sẽ giảm bớt các cuộc tấn công vào các cơ sở hạ tầng ngũ cốc của Ukraine. Việc bán ra theo yếu tố kỹ thuật cũng bổ sung áp lực lên giá.
Giai đoạn phát triển quan trọng đối với cây đậu tương của Mỹ là thời điểm bắt đầu bước sang tháng 8, phần lớn nước này dự kiến thoát khỏi mức nhiệt độ cao hơn bình thường đáng kể.
Kết thúc phiên thứ Sáu, giá đậu tương trên sàn Chicago giảm 15-1/2 US cent đóng cửa tại 13,82-1/2 USD/bushel; giá ngô giảm 12 US cent xuống 5,30-1/4 USD/bushel; trong khi lúa mì giảm 8-1/2 US cent xuống 7,04-1/4 USD/bushel.
Tính chung cả tuần, giá ngô, lúa mì và đậu tương đều giảm.
Giá đường thô trong phiên cuối tuần giảm 0,51 cent, tương đương 2,1%, ở mức 23,92 cent/lb, sau khi đạt mức cao nhất kể từ ngày 22 tháng 6 vào thứ Hai. Tính chung cả tuần, giá đường thô giảm 4,4% trong bối cảnh vụ mía của Brazil phát triển tốt và các điều kiện thuận lợi cho vụ tiếp theo của Ấn Độ. Giá đường trắng phiên cuối tuần giảm 8,00, tương đương 1,2%, xuống 678,50 USD/tấn.
Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 9 đóng cửa phiên thứ Sáu giảm 3,55 US cent hay 2,2% xuống 1,5790 USD/lb; cà phê robusta kỳ hạn tháng 9 giảm 85 USD hay 3,2% xuống 2.588 USD/tấn. Tính chung cả tuần, giá cà phê giảm.
Brazil, nhà xuất khẩu cà phê arabica lớn nhất thế giới đang trên đà có một vụ mùa bội thu năm 2024, nhưng vẫn có thách thức phía trước về chất lượng do ảnh hưởng của mô hình thời tiết El Nino.
Các đại lý tại Brazil cho biết xuất khẩu cà phê của nước này không đạt được trên 3 triệu bao mỗi tháng, đây là mức thế giới cần do lượng dự trữ của các thương nhân và nhà rang xay khá thấp.
Giá cao su trên thị trường Nhật Bản giảm xuống mức thấp nhất kể từ tháng 9/2021 do đồng yên mạnh lên sau quyết định của Ngân hàng Trung ương Nhật Bản điều chỉnh chính sách kiểm soát đường cong lãi suất.
Hợp đồng cao su giao tháng 1/2024 trên sàn giao dịch Osaka (Nhật Bản) giảm 1,3 JPY, hay 0,7%, xuống 199,1 JPY (1,43 USD)/kg; tính chung cả tuần giá giảm 1,4%. Hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 9 trên sàn giao dịch Thượng Hải đóng cửa tăng 10 CNY lên 12.205 CNY (1.705,44 USD)/tấn. Hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 8 trên nền tảng SICOM của Sở giao dịch Singapore được giao dịch lần cuối ở mức 130,2 US cent/kg, tăng 0,6%.
Đồng yên tăng mạnh trong phiên giao dịch đầy biến động vào thứ Sáu sau khi Ngân hàng Trung ương Nhật Bản thông báo sẽ thực hiện chính sách kiểm soát đường cong lợi suất linh hoạt hơn, trong khi đồng đô la giữ ổn định so với hầu hết các đối thủ khác sau dữ liệu kinh tế ở Mỹ tốt hơn mong đợi.
Hoạt động sản xuất của Trung Quốc tháng 7 có thể giảm tháng thứ tư liên tiếp, kết quả một cuộc thăm dò của Reuters hôm thứ Sáu cho thấy, củng cố nhu cầu hỗ trợ chính sách hơn nữa để thúc đẩy nhu cầu trong nước trong bối cảnh kinh tế phục hồi "gập ghềnh".
Tuy nhiên, những lo ngại về nguồn cung đã giúp hạn chế đà giảm của giá cao su kỳ hạn trên thị trường Nhật Bản.
Giá hàng hóa thế giới:
|
ĐVT
|
Giá 21/7
|
Giá 28/7
|
28/7 so với 27/7
|
28/7 so với 27/7 (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
76,70
|
80,58
|
+0,49
|
+0,61%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
80,65
|
84,99
|
+0,75
|
+0,89%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
70.800,00
|
71.490,00
|
-90,00
|
-0,13%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
2,69
|
2,64
|
+0,04
|
+1,66%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
279,00
|
295,58
|
+0,53
|
+0,18%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
273,62
|
295,86
|
+4,17
|
+1,43%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
800,75
|
874,00
|
+19,75
|
+2,31%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
78.000,00
|
78.000,00
|
0,00
|
0,00%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
2.001,40
|
1.999,90
|
+14,70
|
+0,74%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
8.911,00
|
8.888,00
|
+163,00
|
+1,87%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
24,81
|
24,50
|
+0,13
|
+0,53%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
111,00
|
109,70
|
+1,80
|
+1,67%
|
Bạch kim
|
USD/ounce
|
965,48
|
938,64
|
+1,12
|
+0,12%
|
Palađi
|
USD/ounce
|
1.292,19
|
1.249,86
|
+5,66
|
+0,45%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
382,25
|
392,65
|
+5,10
|
+1,32%
|
Đồng LME
|
USD/tấn
|
8.452,00
|
8.662,50
|
+93,50
|
+1,09%
|
Nhôm LME
|
USD/tấn
|
2.204,50
|
2.222,00
|
+17,00
|
+0,77%
|
Kẽm LME
|
USD/tấn
|
2.372,00
|
2.497,50
|
+43,50
|
+1,77%
|
Thiếc LME
|
USD/tấn
|
28.494,00
|
28.740,00
|
+60,00
|
+0,21%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
541,50
|
530,25
|
-12,00
|
-2,21%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
704,50
|
704,25
|
-8,50
|
-1,19%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
459,25
|
445,25
|
-0,25
|
-0,06%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
15,97
|
15,63
|
-0,16
|
-1,04%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
1.406,00
|
1.382,50
|
-15,50
|
-1,11%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
411,20
|
405,80
|
-9,80
|
-2,36%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
62,82
|
62,40
|
+0,33
|
+0,53%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
827,80
|
809,10
|
-14,40
|
-1,75%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
3.415,00
|
3.525,00
|
-4,00
|
-0,11%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
161,85
|
157,90
|
-3,55
|
-2,20%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
25,01
|
23,92
|
-0,51
|
-2,09%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
299,90
|
316,85
|
-0,25
|
-0,08%
|
Bông
|
US cent/lb
|
84,09
|
84,26
|
-0,12
|
-0,14%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
--
|
--
|
--
|
--
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
--
|
--
|
--
|
--
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
127,90
|
130,50
|
+0,40
|
+0,31%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
2,16
|
2,16
|
0,00
|
0,00%
|