Trên thị trường năng lượng, giá dầu giảm mạnh sau khi Tổng thống Mỹ Joe Biden thông báo kế hoạch giải phóng kho dự trữ dầu chiến lược (SPR) với quy mô lớn chưa từng có tiền lệ và kêu gọi các công ty dầu mỏ đẩy mạnh sản lượng khai thác nhằm tăng cường nguồn cung cho thị trường.
Kết thúc phiên này, giá dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) kỳ hạn giao tháng 5 giảm 7,54 USD/thùng, hay 7%, xuống 100,28 USD/thùng, trong phiên có lúc giá xuống chỉ 99,66 USD/thùng; dầu Brent giao cùng kỳ hạn, đáo hạn vào ngày 31/3, giảm 5,54 USD, hay 4,8%, xuống 107,91 USD/thùng. Hợp đồng dầu Brent kỳ hạn tháng 6 giảm 5,6% xuống 105,16 USD/thùng. Giá dầu giảm cũng lo lắng về nhu cầu sụt giảm tại Trung Quốc khi Thượng Hải mở rộng phong tỏa chống Covid-19.
Cả hai loại dầu chủ chốt này đều ghi nhận mức tăng theo phần trăm hàng quý cao nhất kể từ quý II/2020, với dầu Brent tăng 38% và dầu WTI tăng 34% trong quý I/2022. Đà tăng này chủ yếu được thúc đẩy từ việc Nga triển khai chiến dịch đặc biệt liên quan tới Ukraine ngày 24/2.
Trước đó, chính quyền Tổng thống Joe Biden thông báo sẽ giải phóng 1 triệu thùng dầu/ngày từ SPR trong vòng 6 tháng tới. với tổng cộng lên đến 180 triệu thùng. Thông báo của Nhà Trắng nhấn mạnh đây là mức “chưa từng có tiền lệ” bởi thế giới chưa từng giải phóng lượng dầu dự trữ lên tới 1 triệu thùng/ngày trong thời gian lâu như vậy. Mức giải phóng kho dầu dự trữ này tương đương với nhu cầu tiêu thụ dầu toàn cầu trong khoảng hai ngày và đánh dấu lần thứ ba Mỹ mở SPR trong vòng sáu tháng qua.
John Kilduff, người sáng lập công ty tư vấn đầu tư Again Capital LLC (Mỹ) cho biết: "Đây là thời điểm mà mỗi thùng đều có giá trị và (đợt mở kho SPR) đồng nghĩa với một khối lượng dầu đáng kể được đưa vào thị trường trong một thời gian dài".
John Kilduff, một đối tác của công ty tư vấn đầu tư Again Capital LLC (Mỹ) cho biết: "Đây là thời điểm mà mỗi thùng đều có giá trị và (đợt mở kho SPR) đồng nghĩa với một khối lượng dầu đáng kể được đưa vào thị trường trong một thời gian dài".
Trước đó, chính quyền Tổng thống Joe Biden thông báo sẽ giải phóng 1 triệu thùng dầu/ngày từ SPR trong vòng 6 tháng tới. với tổng cộng lên đến 180 triệu thùng. Thông báo của Nhà Trắng nhấn mạnh đây là mức “chưa từng có tiền lệ” bởi thế giới chưa từng giải phóng lượng dầu dự trữ lên tới 1 triệu thùng/ngày trong thời gian lâu như vậy. Mức giải phóng kho dầu dự trữ này tương đương với nhu cầu tiêu thụ dầu toàn cầu trong khoảng hai ngày và đánh dấu lần thứ ba Mỹ mở SPR trong vòng sáu tháng qua.
Cùng ngày, Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ và các đối tác (OPEC+) quyết định tăng nhẹ sản lượng dầu thô trong tháng Năm tới, bất chấp giá dầu thô gia tăng.Thông báo sau cuộc họp cấp bộ trưởng lần thứ 27, OPEC+ sẽ nâng sản lượng lên 432.000 thùng/ngày kể từ tháng 5/2022, cao hơn một chút so với mức 400.000 thùng/ngày mà khối này thông báo những tháng trước. OPEC+ cũng nhất trí sẽ nhóm họp lần tới vào ngày 5/5.
Các thành viên khác của Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) có khả năng cũng "theo chân" Mỹ giải phóng các SPR của họ để bù đắp nguồn dầu xuất khẩu bị chặn của Nga do các lệnh trừng phạt nặng nề mà nước này phải hứng chịu do xung đột với Ukraine.
Người phát ngôn của Bộ trưởng Năng lượng New Zealand cho biết, các nước thành viên IEA sẽ nhóm họp vào ngày1/4 (giờ địa phương) để thảo luận về kế hoạch giải phóng SPR kết hợp. Tuy nhiên, Susannah Streeter, nhà phân tích thị trường và đầu tư cao cấp tại công ty dịch vụ tài chính Hargreaves Lansdown (Vương quốc Anh) cho rằng, bất kỳ đợt giải phóng SPR nào cũng có thể là một dấu hiệu cho thấy Mỹ không mong đợi một giải pháp nhanh chóng cho cuộc khủng hoảng ở Ukraine, vốn đã vắt kiệt nguồn cung dầu thế giới.
Các nhà phân tích của ngân hàng Goldman Sachs (Mỹ) cho biết động thái này sẽ giúp thị trường dầu mỏ tái cân bằng vào năm 2022 nhưng không phải là một giải pháp khắc phục vĩnh viễn.
Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ và các đối tác (OPEC+) quyết định tăng nhẹ sản lượng dầu thô trong tháng Năm tới, bất chấp giá dầu thô gia tăng.Thông báo sau cuộc họp cấp bộ trưởng lần thứ 27, OPEC+ sẽ nâng sản lượng lên 432.000 thùng/ngày kể từ tháng 5/2022, cao hơn một chút so với mức 400.000 thùng/ngày mà khối này thông báo những tháng trước. OPEC+ cũng nhất trí sẽ nhóm họp lần tới vào ngày 5/5.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng tăng trong phiên vừa qua, với vàng giao ngay tăng 0,5% lên 1.942,48 USD/ounce, tính chung cả tháng vàng tăng 1,8%; vàng giao sáu tăng 0,8% lên 1.954 USD/ounce.
Số liệu cho thấy mức chi tiêu của người tiêu dùng Mỹ chậm lại rõ rệt trong tháng Hai, trong khi áp lực giá cả tiếp tục gia tăng, với mức lạm phát tăng cao đột biến kể từ đầu những năm 1980.
Ông Bob Haberkorn, chiến lược gia thị trường cấp cao của công ty môi giới giao dịch hàng hóa kỳ hạn RJO Futures (Mỹ), cho biết: “Tình hình địa chính trị bất ổn kéo dài một tháng nay và số liệu lạm phát tiếp tục tăng. Do đó, tâm lý chung của thị trường lúc này của các nhà đầu tư là tìm kiếm sự an toàn”. Vàng thường được coi là một kênh đầu tư an toàn trong thời kỳ bất ổn chính trị và kinh tế.
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ “bóng gió” về việc tăng mạnh lãi suất trong năm nay để chống lại lạm phát tăng cao, điều mà giới đầu tư lo ngại có thể khiến nền kinh tế Mỹ rơi vào suy thoái. Ngoài ra, lợi suất trái phiếu Mỹ kỳ hạn 10 năm giảm trong phiên 31/3 cũng hỗ trợ vàng.
Về các kim loại quý khác, giá bạc giao ngay ổn định, đứng ở mức 24,84 USD/ounce, trong khi giá bạch kim giảm 0,6% xuống 984,52 USD/ounce. Giá cả hai loại kim loại này đều tăng trong quý 1.
Trên thị trường kim loại công nghiệp, giá kim loại cơ bản giảm trong phiên cuối tuần, song tính chung trong quý 1 tăng khá mạnh.
Giá nhôm có quý tăng mạnh nhất kể từ năm 1988 do gián đoạn nguồn cung và chi phí sản xuất tăng do chiến dịch quân sự của Nga ở Ukraine. Trong khi đó, nickel có quý tăng mạnh nhất kể từ năm 2009, bởi việc ép mua trên sàn giao dịch kim loại London LME khiến giá tăng vọt trong tháng này.
Nga sản xuất khoảng 6% lượng nhôm trên thế giới và 10% lượng nickel cùng với các kim loại khác, năng lượng và ngũ cốc.
Nhôm trên sàn giao dịch LME giảm 1,6% xuống 3.493 USD/tấn, tăng 24,4% trong quý này.
Nickel LME giảm 2% xuống 32.250 USD/tấn và tăng 55% trong quý 1.
Cả hai kim loại này đạt mức cao kỷ lục trong tháng 3, mặc dù nickel đã bị sàn LME hủy giao dích sau khi tăng đột biến vào ngày 8/3. Cũng trong phiên này, giá đồng trên sàn LME tăng 0,1% lên 10.374 USD/tấn.
Giá quặng sắt tăng trong phiên 31/3 do Bắc Kinh cam kết tung ra các chính sách nhằm chống lại áp lực giảm giá để ổn định nền kinh tế càng sớm càng tốt.
Tại cuộc họp Hội đồng Nhà nước do Thủ tướng Lý Khắc Cường chủ trì, nước sản xuất thép lớn nhất thế giới này cho biết sẽ chuẩn bị cho khả năng tình trạng không rõ ràng nhiều hơn đối với nền kinh tế này.
Kết thúc phiên, giá quặng sắt kỳ hạn tháng 9 trên sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên tăng 3,3% lên 897 CNY (141,43 USD)/tấn, sau khi chạm mức 912,5 CNY, cao nhất kể từ ngày 6/8/2021. Trên sàn giao dịch Singapore hợp đồng quặng sắt kỳ hạn tháng 5 tăng 1% lên 161,65 USD/tấn.
Quặng sắt giao ngay tại Trung Quốc ở mức 155 USD/tấn tăng 27% trong năm nay, theo số liệu của công ty tư vấn SteelHome. Giá thép thanh tại Thượng Hải tăng 1,7%, thép cuộn cán nóng tăng 0,6%, thép không gỉ giảm 0,8%.
Trên thị trường nông sản, giá đậu tương Mỹ giảm xuống mức thấp nhất trong một tháng, sau khi Bộ Nông nghiệp nước này dự đoán diện tích gieo trồng trong mùa xuân này có thể tăng lên mức cao kỷ lục.
Theo đó, giá đậu tương Mỹ kỳ hạn tháng 5 lúc đóng cửa giảm 45-3/4 US cent xuống 16,18-1/4 USD/bushel, trong phiên có lúc giảm xuống 16,13-1/2 USD, mức thấp nhất của hợp đồng này kể từ ngày 28/2. Giá ngô kỳ hạn tháng 5 tăng 10-3/4 US cent lên 7,48-3/4 USD/bushel, sau khi tăng lên 7,7 USD, cao nhất trong một tuần, trong khi giá lúa mì mềm đỏ vụ đông giao tháng 5 giảm 21-1/4 US cent xuống 10,06 USD/bushel.
Giá đường thô kỳ hạn tháng 5 tăng 0,1% lên 19,49 US cent/lb; đường trắng kỳ hạn tháng 5 tăng 4,3 USD hay 0,8% lên 541,5 USD/tấn.
Giá đường đã tăng 10% trong tháng 3 theo xu hướng giá dầu tăng trong bối cảnh xung đột tại Ukraine. Giá nhiên liệu cao có thể khiến các nhà máy Brazil chuyển từ sản xuất đường sang ethanol.
Giá dầu cọ giảm trong phiên cuối tháng, tính chung cả tháng giảm lần đầu tiên tỏng năm nay do giá dầu thô giảm trong bối cảnh các nhà đầu tư đang quan tâm đến dữ liệu xuất khẩu tháng 3 của nhà xuất khẩu dầu cọ hàng đầu thế giới.
Theo đó, dầu cọ kỳ hạn tháng 6 trên Sàn giao dịch phái sinh Bursa (Malaysia) kết thúc phiên giảm 91 ringgit, tương đương 1,53%, xuống 5.839 ringgit (1.389,41 USD)/tấn vào thời điểm nghỉ giữa ngày, giảm phiên thứ hai liên tiếp, tính chung tháng 3 giảm 7,3%.
Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 5 lúc đóng cửa tăng 4,55 US cent hay 2,1% lên 2,264 USD/lb, tiếp tục phục hồi từ mức thấp nhất 4 tháng hồi giữa tháng 3. Tuy nhiên, hợp đồng này đã giảm 4,4% trong tháng 3. Giá cà phê robusta kỳ hạn tháng 5 tăng 13 USD hay 0,6% lên 2.165 USD/tấn.
Các rào cản hậu cần đối với xuất khẩu cà phê của Brazil đã dịu đi, trong khi lo ngại tiếp diễn về nhu cầu cà phê do xung đột Nga – Ukraine và phong tỏa ở Trung Quốc để hạn chế Covid-19.
Mưa dưới mức bình thường tại các khu vực trồng cà phê của Brazil trong tháng 3 đã hỗ trợ giá.
Tại Châu Á, nguồn cung cà phê Việt Nam tuần này giảm do nông dân đã bán phần lớn trữ lượng của họ. Cà phê nhân xô tại Tây Nguyên được bán ở mức giá 41.100 – 42.000 đồng (1,8 tới 1,84 USD)/kg, thay đổi ít so với phạm vi 41.200 – 42.400 đồng một tuần trước; cà phê robusta xuất khẩu (loại 2 với 5% hạt đen và vỡ) có giá trừ lùi từ 240 tới 250 USD/tấn so với hợp đồng kỳ hạn tháng 7 tại London, không thay đổi so với một tuần trước.
Xuất khẩu cà phê từ Việt Nam ước tính tăng 19,4% trong 3 tháng đầu năm nay so với cùng kỳ năm trước, đạt 541.000 tấn. Xuất khẩu cà phê trong tháng 3 ước tính đạt 170.000 tấn với trị giá 394 triệu USD.
Tại Indonesia mức trừ lùi tuần này thay đổi ít do cà phê đưa ra thị trường chỉ từ vụ thu hoạch nhỏ. Cà phê robusta từ tỉnh Lampung giao tháng 5 được bán ở mức trừ lùi 150 – 160 USD/tấn so với hợp đồng kỳ hạn tháng 4 và tháng 5, mức trừ lùi là 150 USD/tấn một tuần trước.
Giá bông Mỹ giao dịch trên sàn ICE giảm trong phiên vừa qua do USD mạnh lên và hoạt động bán chốt lời. Theo đó, bông kỳ hạn tháng 5 giảm 4,14 cent, tương đương 3%, xuống 135,70 cent/lb.
Báo cáo của Bộ Nông nghiệp Mỹ cho thấy diện tích trồng bông của nước anyf vụ 2022/23 dự kiến là 12,234 triệu acres.
Giá cao su tại Nhật Bản phiên vừa qua đạt cao nhất 4 tuần theo xu hướng tăng tại thị trường Thượng Hải, trong khi nguồn nguyên liệu thô thắt chặt từ Thái Lan, nhà sản xuất hàng đầu và lạc quan về số liệu sản xuất của nhà máy trong nước.
Hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 9 trên sàn giao dịch Osaka đóng cửa tăng 3,6 JPY hay 1,4% lên 259,9 JPY (2,13 USD)/kg, cao nhất kể từ ngày 3/3. Hợp đồng cao su tại Thượng Hải kỳ hạn tháng 9 tăng 230 CNY lên 13.880 CNY (2.188,1 USD)/tấn. Trong phiên có lúc giá đạt mức cao nhất kể từ ngày 11/3 tại 13.910 CNY/tấn.
Sản xuất tại một số nhà máy lốp xe Trung Quốc có thể bị ảnh hưởng do số ca nhiễm Covid-19 tăng mạnh, nhưng có một số cải thiện về tiêu thụ cao su. Trong khi đó, sản lượng nguyên liệu thô từ Thái Lan cũng thắt chặt kể từ khi nhiều nhà khai thác cao su nghỉ cho đến khi kết thúc năm mới của nước này trong giữa tháng 4.
Giá hàng hóa thế giới

 

 

ĐVT

Giá

+/-

+/- (%)

Dầu thô WTI

USD/thùng

100,37

+0,09

+0,09%

Dầu Brent

USD/thùng

105,01

+0,30

+0,29%

Dầu thô TOCOM

JPY/kl

71.910,00

+510,00

+0,71%

Khí thiên nhiên

USD/mBtu

5,65

+0,01

+0,14%

Xăng RBOB FUT

US cent/gallon

315,47

+0,38

+0,12%

Dầu đốt

US cent/gallon

369,12

-11,73

-3,08%

Dầu khí

USD/tấn

1.057,00

-3,75

-0,35%

Dầu lửa TOCOM

JPY/kl

82.000,00

0,00

0,00%

Vàng New York

USD/ounce

1.940,80

-13,20

-0,68%

Vàng TOCOM

JPY/g

7.596,00

+82,00

+1,09%

Bạc New York

USD/ounce

24,99

-0,15

-0,59%

Bạc TOCOM

JPY/g

98,20

+1,10

+1,13%

Bạch kim

USD/ounce

995,92

+9,67

+0,98%

Palađi

USD/ounce

2.332,63

+64,63

+2,85%

Đồng New York

US cent/lb

471,95

-3,15

-0,66%

Đồng LME

USD/tấn

10.375,00

+7,50

+0,07%

Nhôm LME

USD/tấn

3.491,00

-60,00

-1,69%

Kẽm LME

USD/tấn

4.173,50

+24,50

+0,59%

Thiếc LME

USD/tấn

42.910,00

+417,00

+0,98%

Ngô

US cent/bushel

747,50

-1,25

-0,17%

Lúa mì CBOT

US cent/bushel

1.014,50

+8,50

+0,84%

Lúa mạch

US cent/bushel

725,00

-2,50

-0,34%

Gạo thô

USD/cwt

15,95

-0,06

-0,37%

Đậu tương

US cent/bushel

1.622,50

+4,25

+0,26%

Khô đậu tương

USD/tấn

469,40

+1,90

+0,41%

Dầu đậu tương

US cent/lb

70,24

+0,30

+0,43%

Hạt cải WCE

CAD/tấn

960,70

-2,20

-0,23%

Cacao Mỹ

USD/tấn

2.650,00

-1,00

-0,04%

Cà phê Mỹ

US cent/lb

226,40

+4,55

+2,05%

Đường thô

US cent/lb

19,49

+0,02

+0,10%

Nước cam cô đặc đông lạnh

US cent/lb

151,95

+3,80

+2,57%

Bông

US cent/lb

135,42

-0,27

-0,20%

Lông cừu (SFE)

US cent/kg

--

--

--

Gỗ xẻ

USD/1000 board feet

965,30

-36,40

-3,63%

Cao su TOCOM

JPY/kg

174,90

+0,20

+0,11%

Ethanol CME

USD/gallon

2,16

0,00

0,00%

 

 

 

Nguồn: Vinanet/VITIC (Theo Reuters, Bloomberg)