Tỷ giá USD trong nước
Ngân hàng Nhà nước công bố tỷ giá trung tâm của đồng Việt Nam với đô la Mỹ ở mức: 23.227 VND/USD (tăng 4 đồng so với hôm qua). Tỷ giá tham khảo tại Sở giao dịch NHNN hiện mua vào ở mức 23.175 VND/USD và bán ra ở mức 23.650 VND/USD (không đổi).
Với biên độ 3% được qui định, hiện tỷ giá USD các ngân hàng thương mại (NHTM) được phép giao dịch từ 22.530 - 23.924 VND/USD. Tại các ngân hàng thương mại trong nước hôm nay giá mua - bán USD được công bố như sau: Ngân hàng Vietcombank giá USD được niêm yết 23.330 – 23.540 VND/USD (mua vào - bán ra), giảm 5 đồng so với hôm qua ở cả 2 chiều mua bán. Ngân hàng ACB niêm yết 23.380 - 23.550 VND/USD (mua vào - bán ra), tăng 20 đồng ở cả 2 chiều mua bán. Đông Á niêm yết 23.380 - 23.510 VND/USD (mua vào - bán ra), giảm 30 đồng ở cả 2 chiều mua bán.
Ngân hàng Quốc tế - VIB niêm yết 23.340 - 23.540 VND/USD (mua vào - bán ra), không đổi giá mua nhưng giảm 40 đồng giá bán.
Sacombank niêm yết 23.360 - 23.545 VND/USD (mua vào - bán ra), tăng 53 đồng giá mua nhưng giảm 10 đồng giá bán.
Tại Vietinbank, niêm yết 23.332 - 23.522 VND/USD (mua vào - bán ra), giảm 28 đồng cả 2 chiều mua bán. BIDV niêm yết 23.360 - 23.540 VND/USD (mua vào - bán ra), giảm 10 đồng cả 2 chiều mua bán.
Giá USD tự do niêm yết ở mức mua vào 23.550 đồng/USD và bán ra 23.630 đồng/USD, tăng 30 đồng giá mua và tăng 10 đồng giá bán so với hôm qua.
Bảng so sánh tỷ giá ngoại tệ mới nhất hôm nay cập nhật lúc 15h có 9 ngoại tệ tăng giá, 6 giảm giá mua vào. Chiều tỷ giá bán ra có 9 ngoại tệ tăng giá và 15 ngoại tệ giảm giá.
Tỷ giá ngoại tệ 15/4/2020
ĐVT: đồng

Tên ngoại tệ

Mã ngoại tệ

Mua Tiền mặt

Mua chuyển khoản

Bán ra

Đô la Úc

AUD

14.744,14 (+2,40)

14.845,61 (-2,63)

15.289,25 (-1,53)

Đô la Canada

CAD

16.588,24 (-24,13)

16.698,39 (-24,16)

17.044,59 (-30,36)

Franc Thuỵ Sĩ

CHF

23.763,57 (-75,35)

24.177,10 (-90,49)

24.519,86 (-119,81)

Nhân Dân Tệ

CNY

3.257,60 (-2,30)

3.278,38 (-0,83)

3.385,53 (-1,40)

Krone Đan Mạch

DKK

0

3.388,87 (-9,38)

3.552,90 (-7,88)

Euro

EUR

25.424,94 (-94,79)

25.533,49 (-96,42)

26.125,31 (-69,19)

Bảng Anh

GBP

29.108,23 (-111,88)

29.323,70 (-133,25)

29.819,65 (-101,50)

Đô la Hồng Kông

HKD

2.826,84 (-1,66)

2.983,16 (-0,05)

3.075,75 (-1,79)

Rupee Ấn Độ

INR

0

307,55 (-0,19)

319,62 (-0,20)

Yên Nhật

JPY

214,28 (-0,90)

215,91 (-0,78)

221,25 (-1,05)

Won Hàn Quốc

KRW

17,17 (-0,01)

18,29

20,62 (-0,01)

Kuwaiti dinar

KWD

0

75.170,99 (-665,67)

78.119,80 (-691,75)

Ringit Malaysia

MYR

5.072,72 (-10,37)

5.302,52 (-3,62)

5.573,82 (-7,35)

Krone Na Uy

NOK

0

2.213,24 (-9,54)

2.329,65 (-11,13)

Rúp Nga

RUB

0

305,74 (-1,79)

364,11 (-1,44)

Rian Ả-Rập-Xê-Út

SAR

0

6.224,08 (-1,83)

6.468,24 (-1,90)

Krona Thuỵ Điển

SEK

0

2.301,42 (-2,66)

2.416,75 (-4,17)

Đô la Singapore

SGD

16.332,95 (-12,33)

16.431,99 (-12,48)

16.752,96 (-7,66)

Bạc Thái

THB

661,19 (-1,95)

702,28 (-2,69)

745,33 (-2,30)

Đô la Mỹ

USD

23.356,50 (-3,75)

23,37(-0,25 )

23.538,38 (-5,38)

Kip Lào

LAK

0

2,28

2,58

Ðô la New Zealand

NZD

13.955,50 (-134,50)

14.070,80 (-89,80)

14.363,67 (-109,67)

Đô la Đài Loan

TWD

706,79 (-1,34)

782,45 (-1)

823,84 (-0,43)

 

Ind

0

1,53

0

Riêl Campuchia

KHR

0

5

5

Peso Philippin

PHP

0

455 (-1)

484

 

ZAR

0

1,589 (-3)

1.995 (-2)

Tỷ giá USD thế giới suy yếu
USD Index giảm 0,48% xuống 98,862 điểm vào lúc 6h25 (giờ Việt Nam). Tỷ giá euro so với USD tăng 0,05% lên 1,0985. Tỷ giá đồng bảng Anh so với USD tăng 0,06% lên 1,2630. Tỷ giá USD so với yen Nhật giảm 0,06% lên 107,13.
Tỷ giá USD đã giảm xuống mức thấp nhất trong hai tuần so với các loại tiền tệ chủ chốt khác khi tâm lí đầu tư rủi ro quay trở lại thị trường nhờ dữ liệu kinh tế tốt hơn mong đợi từ Trung Quốc, xuất khẩu tháng 3 của Trung Quốc giảm 6,6% so với một năm trước, ít hơn so với mức giảm dự báo là 14%, trong khi nhập khẩu giảm dưới 1%, thấp hơn so với mức dự báo giảm 9,5%.
Các chuyên gia Action Economics nhận định dữ liệu thương mại của Trung Quốc trong tháng 3 đã phục hồi sau khi lao dốc mạnh trong tháng 1 và tháng 2, điều này hỗ trợ thị trường chứng khoán ở châu Á. Trong bối cảnh nhu cầu đầu tư rủi ro được cải thiện và các thị trường quay trở lại hoạt động sau kì nghỉ lễ, đồng bạc xanh duy trì xu hướng giảm nhẹ.
Về tình hình đại dịch COVID-19, số người tử vong hàng ngày ở Mỹ đang có dấu hiệu giảm mạnh. Các bang tại quốc gia này bắt đầu lập kế hoạch mở cửa lại nền kinh tế, do đó giới đầu tư cũng chuyển hướng từ đồng USD sang các loại tiền tệ rủi ro hơn.
Đồng đô la Úc, vốn nhạy cảm với tình hình kinh tế của Trung Quốc do sự phụ thuộc của nước này vào xuất khẩu nguyên liệu thô, đã tăng lên mức cao nhất một tháng ở mức 0,6432 USD.
Theo Lee Hardman, nhà phân tích tiền tệ tại MUFG, bên cạnh sự cải thiện trong tâm lí rủi ro của các nhà đầu tư toàn cầu, các biện pháp kích thích của Cục dự trữ liên bang Mỹ (Fed) cũng là một yếu tố gây áp lực lên đồng bạc xanh, theo Reuters.

Nguồn: VITIC