VINANET- Theo số liệu thống kê, trong 3 tháng đầu năm 2012, xuất khẩu chè của Việt Nam đạt 29.903 tấn, trị giá 41.535.982 USD, tăng 20,42% về lượng và 21,64% về trị giá so với cùng kỳ năm trước.

Pakistan đã giành lại vị trí dẫn đầu thị trường xuất khẩu chè của Việt Nam, 3 tháng đầu năm, Việt Nam xuất sang thị trường này đạt 3.913 tấn chè các loại, với trị giá 6.637.828 USD, tuy nhiên so với cùng kỳ năm ngoái vẫn giảm 8,49% về lượng và 12,09% về trị giá. Năm 2011, Pakistan nhập khẩu 17.582 tấn chè từ Việt Nam (chủ yếu là chè xanh và chè làm từ các loại thảo mộc) với giá trị đạt 32 triệu USD. Đầu năm 2012, Việt Nam cũng đã xuất khẩu sang thị trường này 3.100 tấn, chiếm 15,8% thị phần, đạt kim ngạch 4,9 triệu USD, tập trung vào các loại chè xanh, chè SP 2 (chè đã qua chế biến, sấy khô, đóng thùng carton 439 thùng, 20 kg/thùng).

Ngoài hợp tác về thương mại chè, trao đổi thương mại giữa hai nước cũng được thúc đẩy và tăng cường với tổng kim ngạch hai chiều năm 2011 đạt hơn 300 triệu đô la Mỹ, tăng gần 34% so với năm 2010, các mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam sang thị trường này là vải, sợi, hạt tiêu, chè, thủy sản, cao su, sắt thép, sản phẩm hóa chất...

Trong 3 tháng đầu năm 2012, Đài Loan vượt qua thị trường Indonêsia vươn lên vị trí thứ 2, với trị giá 5.090.295 USD, tương đương 3.991 tấn chè, tăng 23,75% về trị giá và 26,78% về lượng; đứng thứ 3 là thị trường Nga, kim ngạch xuất khẩu chè đạt 4.957.970 USD, tương đương 3.398 tấn chè. Ba thị trường trên chiếm 40,1% tổng giá trị xuất khẩu chè của cả nước.

 

Trong 3 tháng đầu năm 2012, thị trường Indonêsia không còn đứng ở vị trí dẫn đầu thị trường xuất khẩu chè của Việt Nam, nhưng so với cùng kỳ năm trước, xuất sang thị trường này vẫn tăng, tăng 111,2% về lượng và tăng 176,57% về trị giá.

Thị trường Trung Quốc khá ổn định, với lượng xuất 2.846 tấn, trị giá 3.551.844 USD, tăng 55,99% về lượng và 51,14% về trị giá.

 

Đáng chú ý, xuất khẩu chè sang thị trường Arập xêút trong 3 tháng đầu năm 2012, với lượng xuất chỉ đạt 686 tấn, nhưng do xuất khẩu được giá sang thị trường này lên giá trị kim ngạch đạt 1.613.376 USD, tăng 131,2% về lượng và 103,56% về trị giá so với cùng kỳ. Philippin là nhóm thị trường xuất khẩu nhỏ, nhưng so với cùng kỳ năm ngoái vẫn tăng cả lượng và trị giá, tăng lần lượt 149,85% về lượng và 150,77% về trị giá so với cùng kỳ.

 

Số liệu xuất khẩu chè 3 tháng đầu năm 2012

 

 Thị trường

ĐVT

3T/2012

3T/2012 so với cùng kỳ

 

 

Lượng

Trị giá

Lượng (%)

Trị giá (%)

Tổng

Tấn

29.903

41.535.982

20.42

21.64

Pakistan

Tấn

3.913

6.637.828

-8.49

-12.09

Đài Loan

Tấn

3.991

5.090.295

26.78

23.75

Nga

Tấn

3.398

4.957.970

-15.02

-13.49

Indonêsia

Tấn

4.414

3.746.997

111.2

176.57

Trung Quốc

Tấn

2.846

3.551.844

55.99

51.14

Arập xêút

Tấn

686

1.613.376

131.2

103.56

Hoa Kỳ

Tấn

1.322

1.537.797

60.2

52.13

Ba Lan

Tấn

1.003

986.708

35.11

33.38

Đức

Tấn

476

751.247

-7.65

-22.85

Tiểu VQAR thống nhất

Tấn

325

694.740

63.93

28.97

Philippin

Tấn

163

428.426

149.85

150.77

Ấn Độ

Tấn

122

220.012

-31.02

-29.48

Trong cuộc hội thảo ngành chè mới đây, Bộ NNPTNT yêu cầu “Hiệp hội Chè Việt Nam cần phấn đấu đưa giá chè xuất khẩu của Việt Nam đến năm 2015 ngang bằng với giá bình quân của thế giới, Hiệp hội Chè Việt Nam cần vận động các thành viên làm tốt công tác thu mua nguyên liệu đúng tiêu chuẩn với giá hợp lý, đầu tư đổi mới công nghệ, thiết bị, sản xuất sản phẩm có giá trị gia tăng cao”. Đây là một trong những nội dung mà Bộ NNPTNT yêu cầu thực hiện để phát triển chè bền vững trong thời gian tới.

Trong năm 2012, Bộ NNPTNT yêu cầu Cục Trồng trọt chủ trì rà soát quy hoạch và chỉ đạo các địa phương thực hiện, có kế hoạch trồng mới, cải tạo các vườn chè cũ bằng giống mới có năng suất, chất lượng và hiệu quả cao; đẩy mạnh việc áp dụng các tiêu chuẩn tiên tiến trong sản xuất, phấn đấu đến năm 2015 có ít nhất 50% diện tích chè được cấp chứng chỉ.

Cục Bảo vệ thực vật rà soát và công bố các danh mục thuốc bảo vệ thực vật được sử dụng trên cây chè, chỉ đạo các Chi cục Bảo vệ thực vật ở các vùng tăng cường kiểm soát, khống chế dư lượng thuốc bảo vệ thực vật đối với cây chè.

Sở NNPTNT các tỉnh có trồng và chế biến chè tăng cường kiểm tra, kiểm soát chất lượng; điều kiện đảm bảo an toàn thực phẩm các cơ sở sản xuất, chế biến chè; tham mưu với ủy ban nhân dân tỉnh xây dựng các chính sách của địa phương khuyến khích người trồng chè canh tác, thu hái đúng kỹ thuật, đúng tiêu chuẩn và xây dựng các hình thức tổ chức sản xuất, liên kết giữa doanh nghiệp với nông dân.

Bộ NNPTNT giao Cục Chế biến, Thương mại nông lâm thủy sản và Nghề muối tiếp tục chủ trì xây dựng Đề án nâng cao giá trị gia tăng ngành chè đến năm 2020; phối hợp với các ban, ngành, địa phương kiểm tra, đánh giá phân loại các cơ sở chế biến chè, kiểm soát về chất lượng từ khâu sản xuất, thu mua, chế biến và tiêu thụ.

Nguồn: Vinanet